Thứ Sáu, 16 tháng 6, 2023

290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

 

290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như liên hệ :

Tu viện Chơn Như (Cổng số 2) Số 4 đường Chùa Am, khu phố Gia Lâm, phường Gia Lộc, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam.

Email: chonnhu2@gmail.com

Ban kinh sách Tu viện Chơn Như:

Điện thoại: 0276.3892.911

(07h-10h, 14h-17h hàng ngày),

DTDĐ : 0965.795.589.

***

01-ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT

https://thanhson22.blogspot.com/

02-TÌM HIỂU SỰ THẬT.

https://thanhhuy23.blogspot.com/

03-TÌM HIỂU CHÁNH PHÁP

https://tuanboya-z.blogspot.com/

04-ĐẠO ĐỨC GIẢI THOÁT

https://tricang23.blogspot.com/

05-TU TẬP GIẢI THOÁT

https://vietboy23.blogspot.com/

06- NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT PHÁP

https://tuanboysport.blogspot.com/

07-SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH

https://tricangsport.blogspot.com/

08-NGƯỜI DỰNG LẠI CHÁNH PHẬT PHÁP

https://huyhoang22.blogspot.com/

09-NHỮNG BỨC TÂM THƯ

https://thanhhai22.blogspot.com/

10-GIÁO ÁN ÐƯỜNG LỐI TU TẬP ÐẠO PHẬT

https://thanhthien22.blogspot.com/

11-KẾT TẬP PHÁP BẢO CỦA ĐỨC TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC:

PHẦN 1: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 515

https://tricang19.blogspot.com/

PHẦN 2: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 510.

https://tuongthuc.blogspot.com/

PHẦN 3: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 500.

https://phapbaovn.blogspot.com/

PHẦN 4: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 528.

https://tambatdongvn.blogspot.com/

PHẦN 5: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 510

https://kettapphapbao5.blogspot.com/

PHẦN 6: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 500

https://kettap6.blogspot.com/

12-TÁC Ý ĐUỔI BỆNH

 https://kettap5.blogspot.com/ 

13-LỚP NGŨ GIỚI NÂNG CAO

https://ythucluc.blogspot.com/

14- THẾ GIỚI TƯỞNG

https://tuongam.blogspot.com/

15-PHÁP TƯỞNG

https://phaptuong.blogspot.com/

16-NGHIỆP & TỪ TRƯỜNG.

https://nghieptutruong.blogspot.com/

17-TU TẬP BUÔNG XẢ

https://tuviencn.blogspot.com/

18-TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC (VIDEO)

https://www.youtube.com/hashtag/thichthonglac

 

289-SỐNG LÀ TU

 

289-SỐNG LÀ TU

Hỏi: Kính thưa Thầy, Sống là tu, tu là sống như thế nào?

Đáp: Thường người ta quan niệm tu hành, khác với cuộc sống. Khi tu phải lìa xa cuộc sống thế gian, không có sống chung với người thế gian, nghĩa là khi đi tu thì phải cắt ái, ly gia, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả sự nghiệp, lìa xa gia đình, những người thân, ngay cả cha mẹ và anh em dòng họ, v.v...Người tu hành phải thực hiện các pháp môn hằng ngày như: ngồi thiền, tụng kinh, niệm chú, niệm Phật, lạy hồng danh chư Phật ,v.v…
Những pháp môn này không phải của đức Phật dạy mà của ngoại đạo khéo lồng vào giáo pháp của đức Phật để lừa đảo tín đồ Phật giáo.

 Bước vào Đạo Đế tức là bước vào một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật. Mà Đạo Đế là pháp hành của đạo Phật dạy chúng để sống trong cuộc sống với mọi người thì làm gì có dạy chúng ta ly gia cắt ái, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ gia đình sự nghiệp, v.v…Khi bắt đầu vào tu theo pháp môn của đạo Phật thì Ngài dạy chúng ta phải sống đúng chánh kiến, nghĩa là hằng ngày chúng ta phải thấy và hiểu biết: Cái nào thiện thì biết là thiện, cái nào ác thì biết là ác; biết thiện thì tăng trưởng, vì thiện không làm khổ mình khổ người; biết ác thì ngăn ngừa và diệt chúng để không làm khổ mình khổ người. Người thấy và biết sống như vậy là tu tập chánh kiến.

 Sống không làm khổ mình, khổ người là tu, mà người tu tập phải sống có chánh kiến như vậy, mà sống có chánh kiến như vậy tức là tu tập. Như vậy đạo Phật không có dạy chúng ta tụng kinh, ngồi thiền, trì chú, cúng bái, tế lễ v.v...mà dạy chúng sống đúng Chánh kiến, sống đúng Chánh tư duy, sống đúng Chánh ngữ, sống đúng Chánh nghiệp, sống đúng Chánh mạng, sống đúng Chánh tinh tấn, sống đúng Chánh niệm và như vậy chúng ta sẽ sống đúng Chánh định tức là Chánh thiền định mà Chánh thiền định, tức là bắt đầu từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền, mà Sơ Thiền tức là ly dục ly ác pháp, mà ly dục ly ác pháp tức là Chánh kiến.

 Như vậy, không phải sống là tu hay sao? Và tu là sống không làm khổ mình khổ người thì có đúng không? Cho nên thiền định là cuộc sống mà tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, chứ không phải thứ thiền định lìa cuộc sống “Ngồi thiền”.
Sự tu tập của đạo Phật không lìa cuộc sống, kẻ nào lìa cuộc sống ngồi thiền, tụng kinh, v.v...thì tu hành không bao giờ có sự giải thoát. Xa lìa cuộc sống mà sống phạm giới, phá giới, thì có khác gì cuộc sống của người thế gian, thì người đó tu không đúng đạo Phật, mà đang tu theo ngoại đạo. Tu theo ngoại đạo thì sẽ rơi vào tà kiến, tà niệm, tà thiền, tà định, thì đời đời kiếp kiếp sẽ trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Trích Đường Về Xứ Phật tập III)


288-THƯƠNG YÊU VÀ THA THỨ.

 

288-THƯƠNG YÊU VÀ THA THỨ.

Mỗi sáng thức dậy hoặc khi nào rảnh rang, chúng ta thầm ước nguyện trong đầu câu : “Luông sống thương yêu và tha thứ”. Thương yêu và tha thứ chính là ý nghĩa chính của đạo đức nhân bản nhân quả. Thương Yêu và Tha Thứ giúp cho tâm hồn luôn thanh thản và đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người.

• Ước nguyện rằng ngày hôm nay những người tôi gặp dù ác hay thiện tôi đều thương yêu và tha thứ và họ cũng thương yêu và tha thứ cho tôi và những người khác.

• Khi tình cờ chúng ta thấy một người đánh một người, biết rằng mình không giúp hay làm gì được thì chúng ta hãy ước nguyện cho họ hãy thương yêu và tha thứ cho nhau.

• Khi ai nạt nộ, sân giận, lớn tiếng hay chửi mắng mình thì hãy nhắc câu “Hãy thương yêu và tha thứ”

• Khi ai làm trái ý mình hay làm những gì mình không thích thì mình cũng nhắc tâm sẽ thương yêu và tha thứ.

• Ước nguyện rằng tất cả mọi người trên thế gian này đều sống thương yêu và tha thứ.

Mục đích của phương pháp này là trau dồi tâm Từ Bi Hỷ Xả cho chính mình và cho người. Khi tâm của người ước nguyện thanh thản sẽ giao cảm được với tất cả mọi người mà mình ước nguyện để chuyển hóa những người đó. Do vậy tâm của người sân hận, hận thù sẽ chuyển đổi thành thương yêu và tha thứ.

Nếu như tình cờ qua TV, radio, internet, quảng cáo, báo chí,v.v… những người ngày hôm đó có ý trả thù, gây chiến tranh, chuẩn bị đi cướp bóc, chuẩn bị làm gì đó bạo lực,v.v… nghe hay thấy được câu "Hãy Sống Thương Yêu Và Tha Thứ" họ sẽ suy nghĩ lại hành động của mình và có thể thay đổi ý.

Do nhắc tâm mỗi ngày sẽ thành một nội lực Ý THỨC LỰC đến lúc nào đó ai giận, chửi mắng hay đánh đập, giết mình, nói lời nói hay làm điều gì trái ý, nghịch lòng mình …tâm mình sẽ BẤT ĐỘNG và THA THỨ thật sự thì sự tu tập viên mãn thực sự.

Khi quen dần với phương pháp này, chúng ta có thể trải rộng lòng yêu thương và tha thứ ra cả thế giới, khắp hành tinh ta đang sống: Ví dụ: Khi rãnh chúng ta ngồi nhắc thầm trong đầu rằng: "Ta sẽ luôn yêu thương và tha thứ cho tất cả mọi người và muôn loài vật; luôn cung kính và tôn trọng tất cả mọi người không phân biệt già trẻ, dân tộc; luôn sống nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng với mọi ý kiến, lời nói, yêu cầu và việc làm của người để người vui mình vui". Đầu tiên ta nguyện sẽ sống đúng như câu trên với tất cả mọi người trong gia đình. Sau đó, sẽ trải rộng lòng yêu thương và tha thứ ra đến tất cả hàng xóm, mọi người xung quanh khu ta ở, sau đó trải rộng ra khắp quận huyện, tỉnh, thành, khắp nước Việt Nam, đến các nước láng giềng, khắp tất cả các nước thuộc Châu Á. Sau đó sẽ trải rộng tiếp đến mọi dân và các loài vật ở các nước thuộc Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, Châu Phi và khắp tất cả các đảo, bán đảo, quần đảo lớn nhỏ trên hành tinh này. Lòng yêu thương và tha thứ của ta sẽ phủ trùm khắp hành tinh này, luôn sống để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mình cho người và muôn loài vạn vật khác.

Thường thì ai cũng hiểu nên sống Thương Yêu và Tha Thứ nhưng tại sao khi gặp việc thì tâm vẫn sân giận khi ai làm trái ý nghịch lòng, khi ai đó đánh đập giết hại mình, trộm cắp đồ của mình, nói dối lừa gạt, nói xấu, nói chỉ trích, chê bai mình,…Đó là vì mình không áp dụng phương pháp nhắc tâm (Tự Kỷ ám thị).

Chính nhờ nhắc tâm mỗi ngày hay khi gặp sự việc trên thì dần dần tâm sẽ được ta huấn luyện sống với những đức hạnh thiện. Phương pháp nhắc tâm đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được. Không áp dụng phương pháp nhắc tâm thì chúng ta sẽ bị chìm trong biển khổ ác này. Do vậy xin các bạn đừng quên phương pháp nhắc tâm. Đó là chìa khóa của mọi thành công trong cuộc sống.

Và rồi bạn sẽ chiêm nghiệm ra một điều chính Lòng Thương Yêu và Tha Thứ là chìa khóa giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống.



287-ĐỨC THIỂU DỤC TRI TÚC

 

287-ĐỨC THIỂU DỤC TRI TÚC

Sống thiểu dục tri túc là sống ít muốn biết đủ.

Ít muốn là ít ham muốn, chỉ muốn những gì cần thiết tối thiểu phục vụ đời sống cho mình thôi, không muốn dư, không ham muốn mua sắm nhiều đồ, linh tinh, không ham muốn mua đồ để chưng bày, để làm đẹp, để cho sang, cho mát, cho đúng phong thủy, cho đúng màu, cho đúng kiểu, đúng văn hóa, họ không cần nhà cao rộng lớn, không cần đứng tên sở hữu tài sản, không chạy theo những máy móc, thiết bị có công nghệ hiện đại, ...

Họ không cần giàu sang, chỉ đủ sống là được, không tham tiền bạc, không tham danh lợi, không dính mắc vào chuyện tình cảm, sống một mình thanh thản an lạc và vô sự.

Đối với người tu hành, họ thích sống một mình, chỉ ăn ngày một bữa, không cất giữ tiền bạc, không nằm giường cao rộng lớn, chỉ ở một cái thất nhỏ 12 m2

Tóm lại người ít muốn biết đủ họ chỉ cần vài bộ đồ để mặc và những thứ cần thiết phục vụ đời sống hằng ngày, trong nhà họ thật đơn giản, trống thoáng, không có gì ngoài cái bàn nhỏ, cái ghế nhỏ, cái giường vừa đủ nằm, không có vật gì chưng bày, không có vật gì treo trên tường,...

Sống biết đủ. Khi biết đủ thì con người sống sẽ có thời gian nghĩ đến người khác; biết giúp đỡ và cho đi những gì mình có, mình dư; sống không keo kiệt, bủn xỉn; không tham lam tích trữ, để dành hay gom góp mọi thứ về riêng cho mình. Cách sống biết chia sẻ là cách diệt lòng ích kỷ, bủn xỉn hẹp hòi. Đức này là đức thiểu dục tri túc.
Sống biết hài lòng với cuộc sống: Mời bạn đọc câu chuyện sau.

Một người chủ giàu có nhìn thấy một thợ câu cá đang nằm lưởi biếng cạnh thuyền câu, mồm ngậm tẩu thuốc.“Tại sao anh không làm việc?”, người chủ hỏi.

“Vì tôi đã câu đủ cho hôm nay rồi,” người thợ trả lời.

“Thế tại sao anh không câu thêm vài con nữa?”

“Câu thêm thì tôi sẽ làm gì với chúng?”

“Anh có thế kiếm thêm tiền,” người chủ nói, “Với số tiền đó, anh có thế mua một cái động cơ mới cho chiếc thuyền của mình, rồi đi đánh cá ở vùng biển xa hơn. Anh sẽ đánh bắt được nhiều cá hơn và kiếm nhiều tiền hơn nữa. Sau đó, anh có thể mua thêm một chiếc thuyền nữa, thuê một đội đánh bắt đi theo mình. Và anh sẽ trở nên giàu có, giống tôi.”

“Và, khi đó tôi sẽ làm gì?”

“Anh có thể thảnh thơi tận hưởng cuộc sống, làm những gì mà anh yêu thích.”

“Vậy, ông nghĩ tôi đang làm gì đây?”, người thợ câu ngước nhìn và hỏi.


286-ĐỨC TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM

 

286-ĐỨC TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM

A/ Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu danh từ tĩnh giác trước. Giác ở đây là "GIÁC NGỘ", mà GIÁC NGỘ có nghĩa là phân biệt biết rõ các pháp nào ác và các pháp nào thiện, giác ngộ ra chân lý, giác ngộ ra sự giải thoát, giác ngộ ra con đường đem đến sự giải thoát, giác ngộ ra con đường thiện, giác ngộ ra nên sống ngăn và diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện, giác ngộ ra cuộc đời này là "khổ", giác ngộ ra nguyên nhân của cái khổ là "lòng ham muốn", giác ngộ ra con đường đưa đến hạnh phúc hết khổ đau là "Bát Chánh Đạo", giác ngộ ra trạng thái hết khổ là "tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự", giác ngộ ra lý vô thường của các pháp thế gian, không có gì là ta, là của ta là bản ngã của ta, giác ngộ ra nhân quả,...
 Do vậy muốn giác ngộ thì con người phải "quán xét" hoặc "suy xét", chứ không phải tự nhiên tin đại, tin bừa thiếu trí tuệ tư duy. Do quán xét hoặc suy xét những điều được nghe, được thấy đem đến lợi ích cho mình, cho người, và cho các loài chúng sinh khác cho nên tin rằng con đường này là con đường đưa đến an vui và hạnh phúc cho mình, cho người và cho muôn loài vạn vật khác.
 Tĩnh ở đây là sự định tĩnh, sự bình tĩnh, sự im lặng sáng suốt.
 Người có đức tĩnh giác là người luôn bình tĩnh, định tĩnh, im lặng sáng suốt luôn tư duy quán xét mọi việc có làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh hay không.
 Còn chánh niệm là những niệm thiện, niệm thiện là niệm không làm khổ mình, khổ người và khổ các loài vật khác. Niệm theo hành động sống của các bậc thánh như đức Phật, các vị thánh tăng, của những lời Phật dạy, của giới luật, niệm sống bảo vệ và giữ gìn lý giải thoát "tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự."
 Sau khi quán xét tư duy thì họ chỉ sống trong thiện pháp nghĩa là sống trong chánh niệm để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mình, cho người và muôn loài vạn vật. Do vậy gọi là tĩnh giác chánh niệm. Chánh niệm luôn đi sau tĩnh giác là vậy.
 Trước mọi việc xảy ra trong cuộc sống, người có tĩnh giác chánh niệm luôn sáng suốt, bình tĩnh giải quyết công việc từ nhỏ đến lớn rất chu đáo, thấu suốt để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Do vậy tĩnh giác chánh niệm có rất nhiều lợi ích:

1.   Tĩnh giác là tỉnh thức luôn luôn sáng suốt nhận xét tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh chúng ta một cách đúng với chánh pháp.

2.    Tĩnh giác là tâm an vui.

3.   Tĩnh giác là tâm bình tĩnh trước các ác pháp và các cảm thọ luôn luôn sáng suốt quan sát từng các đối tượng (sáu trần) tiếp xúc sáu căn (mắt thấy, tai nghe…) để giúp cho người tu hành không dính mắc, nên nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng một cách dễ dàng để tâm được an lạc, thanh thản và vô sự.

4.   Tĩnh giác là tâm sáng suốt chủ động biết rõ từng hành động thân, miệng, ý của mình trước khi làm, nghĩ và nói những cái gì.

5.   Tĩnh giác là thiện pháp không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai.

6.    Tĩnh giác là thiện pháp, mà thiện pháp là chuyển ác pháp nên người tu tập tỉnh giác ít xảy ra tai nạn.

7.    Tĩnh giác lá một pháp xuất thế gian, giúp cho con người luôn sống trong thiện pháp và chân lý giải thoát.

8.  Tĩnh giác là một giới đức trong pháp môn QUÁN VÔ LẬU của Phật giáo nên nó có phương pháp tu tập, vì thế nó có sức gạn lọc tâm tư thanh tịnh không còn các ác pháp và trong khi tu tập nó còn có một sức bình tĩnh kỳ lạ khi đứng trước các ác pháp nó rất định tĩnh, nếu tu tập đúng đặc tướng.

9.  Tĩnh giác chánh niệm trong kinh Phật dạy dùng sức “BÌNH TĨNH” quan sát phân biệt các pháp nào thiện để tăng trưởng và ngăn chặn, diệt trừ các pháp nào ác để “XẢ TÂM”, đó là để giúp tâm bất động trước các pháp ác; là để giúp tâm thanh thản, an lạc và vô sự; đó là để bảo vệ CHÂN LÝ nơi bất sinh bất diệt của loài người.

10.  Tĩnh giác chánh niệm dùng để tu tập TỨ CHÁNH CẦN xả tâm phần thô.

Chúng ta hãy cùng xem vài ví dụ dưới đây về đức tĩnh giác chánh niệm:

1.     Khi đi đường, chúng ta nên không những nhìn xuống đất mà còn phải chú ý xung quanh, lắng nghe những tiếng động xung quanh. Chứ không phải nói phòng hộ sáu căn là nhắm mắt, bịt tai, bóp mũi, bịt miệng, cột tay, cột chân hoặc không cho ý thức khởi niệm gì.

2.  Nếu tĩnh giác thì khi đi chúng ta sẽ không vấp đá, lọt ổ gà bị té, hoặc giẫm đạp lên chúng sanh và các loài cây cỏ dưới đất.

3.  Đồng thời nếu tĩnh giác đang đi, ta nghe tiếng đập đập phía trước thì phải nhìn xem là gì, có khi đó là một công trình xây dựng, họ đang gỡ mái nhà xuống, ta cứ lo đi nhìn xuống đất, bịt tai lại, có nghe cũng không để ý, thì khi đi ngang qua công trình, rũi không may, mái ngói rớt xuống đầu, xuống chân thì lỗi tại ai. Nếu ta có tĩnh giác thì khi ta thấy có công trình đang xây dựng, ta đã tránh xa qua đường khác đi.

4.  Khi cầm nắm bất cứ vật gì, cũng tĩnh giác xem trên vật đó có các loài vật nhỏ côn trùng như kiến, gián,... hay không. Nếu có thì ta nhẹ nhàng đem chúng ra ngoài.

5.     Khi để vật gì lên mặt bàn thì cũng nên tĩnh giác xem trên mặt bàn đó có các loài vật côn trùng hay không, kẻo ta để vật đó đè lên các loài chúng sanh khiến chúng bị thương hoặc chết.

6.  Khi nằm, ngồi, đứng cũng vậy ta đều phải tĩnh giác xem xét, ở trên ghế, trên giường, dưới đất có các loài côn trùng hay không, kẻo ta vô tình là hại chúng.

7.  Khi đi, ngoài việc nhìn xuống đất tránh giẫm đạp các loài vật, chúng ta cũng nên chú ý những vật khác ở dưới đất có khả năng gây hại cho người như đinh, vỏ chuối, dây điện treo lòng thòng từ trên xuống,... nếu có ta nên lượm đinh ốc lên, gạt vỏ chuối vào tường, dùng cây dài móc dây điện qua hướng an toàn để không chạm vào người và xe chạy ngang.

8.   Khi lái xe 2 bánh cũng vậy, ngoài việc tĩnh giác khi lái xe nhìn ngang, dọc, đôi khi chúng ta cũng phải nhìn xuống dưới đường để tránh ổ gà, tránh đinh, ốc, và nhất là phải làm chủ tốc độ không chạy nhanh quá tốc độ cho phép.

9.   Khi đi bộ đến ngã tư, phải nhìn tứ phía có xe không rồi hả băng qua, đừng nghĩ rằng mình là người đi bộ, tất cả xe đều phải tránh. Nếu mình lái xe, dù là mình đang trên đường ưu tiên đèn xanh, cũng phải xem xe 2 bên kia có đâm ra hay không để tránh hoặc nhường họ. Đó là người có tĩnh giác.

10.  Khi đi hoặc lái xe ngang qua con hẻm, cũng phải tĩnh giác lắng nghe có tiếng xe chạy đâm ra hay không để tránh họ, đừng nghĩ xe phải tránh người đi bộ, hoặc xe đó phải tránh xe mình vì mình đang trên đường ưu tiên hơn.

11.   Khi đang lái xe, muốn chuyển sang lane khác để đi thì không những phải bật đèn sang lane, mà còn phải nhìn kiếng chiếu hậu và quay đầu nhìn ra sau. Có khi xe sau đang ở tầm khuất của kính chiếu hậu thì nếu không nhìn ra sau sẽ không thấy xe đó. Đến khi chuyển lane thì mới thấy đã quá muộn, may thì không có gì nhưng sẽ bị người tài xế kia la cho một trận, hoặc mình đã làm cho họ hết hồn hết vía, sợ hãi, đó là mình đang làm khổ họ.

12.  Khi ăn cơm nóng, uống canh hoặc nước nóng cũng phải tĩnh giác, không nên có thói quen cứ ăn, cứ uống không để ý gì đến cái nóng của cơm, canh hoặc nước, khi ăn uống xong thì đã phỏng lưỡi, phỏng miệng rồi.

13.  Khi đang làm bếp, sắc rau, mà cứ lo nghĩ việc này việc nọ, dao cắt vào tay không hay biết, đó là do thiếu tĩnh giác.

14.   Khi cầm thau nước gần đầy đi xuống cầu thang, thì phải tĩnh giác nhìn ngó tứ phía, xem có vật cản hay không để tránh, đồng thời nhìn thao nước có nghiêng hay không, kẻo đổ ra cầu thang, ra sàn nhà là làm khổ mình phải lau sạch nước đổ,...

15.  Khi làm việc gì, người tĩnh giác luôn quán xét mọi việc có nằm trong khả năng của mình không, khi nào làm, ai làm, ai kiểm tra, nếu có không như ý muốn thì như thế nào, có khả năng về tài chánh hay không? mất bao nhiêu thời gian,...

16.    Khi các pháp đến, người có tĩnh giác phải luôn quán xét xem pháp đó có phải là dục hay ác pháp hay không, có làm khổ mình, khổ người, khổ các loài vật hay không. Nếu có thì không làm, nếu khổ thì nói và làm.

17.   Bác sĩ mổ xong mà để quên dụng cụ hoặc bông thấm máu trong người bệnh nhân là thiếu tĩnh giác.

18.   Người thợ sửa xe, khi tháo ra có 12 con ốc, lắp lại còn dư một con là biết thiếu tĩnh giác.

19.    Học sinh mặc dù học giỏi, làm bài kiểm tra xong, tất cả đều đúng, nhưng quên ghi tên mình lên giấy kiểm tra, cũng là thiếu tĩnh giác.

20.   Người em gái nhờ mình rước cháu học ở nhà trẻ về dùm, chiều nay lúc 4h. Mình lo làm việc của mình quên mất chuyện đi rước cháu, để cháu một mình cuối cùng ở lại trường, làm cho bé lo, khóc. Cô giáo phải gọi điện báo cho mẹ biết, mẹ giật mình phải gọi điện về nhờ người khác đi đón. Đó là mình thiếu tĩnh giác.

21.   Người có tĩnh giác, trước khi bước vào chùa hoặc tu viện tu tập giữ hạnh độc cư, thì phải thông suốt những gì cần thông suốt, nghĩa là đã thông suốt đường lối tu tập chưa, hiểu rõ các pháp hành chưa, khi nào áp dụng chúng, khi nào không, đã hiểu rõ chân lý giải thoát là gì chưa? Đã giải quyết chuyện gia đình chưa?... Bởi vì khi đã giữ hạnh độc cư thì không thể đọc sách tiếp duyên thưa hỏi nữa. Người chưa thông suốt sẽ tu sai, mất thời gian, có khi dẫn đến bị bệnh nhiều hơn, bị tẩu quả nhập ma,...

22.     Người có tĩnh giác luôn dùng ái ngữ, khi nói luôn nói lời thành thật, ôn tồn, nhẹ nhàng, lịch sự, không nói lớn tiếng, lời nói hung dữ, thêu dệt, lật long, ly gián chia rẻ, nói xấu, nói cái sai, cái lỗi,...của bất kỳ ai.

23.     Người có tĩnh giác làm việc gì cũng nhẹ nhàng, đặt vật gì lên bàn, vào đâu cũng nhẹ nhàng, không để lớn tiếng làm động người khác, làm họ giật mình, làm phiền mọi người vì tiếng động do mình gây ra: đi mạnh, dậm chân, lê dép, đóng cửa cái rầm, khua nồi muỗng trong bếp loang choang,... 

24.     Người có tĩnh giác khi làm việc gì đều từ tốn, chậm rãi khoan thai, nhìn trước được những nguy hiểm để tránh từ mọi việc nhỏ nhặt hằng ngày, không để bất kỳ điều gì không tốt xảy ra với mình, với người và các loài vật khác. Người có tĩnh giác chánh niệm luôn điềm đạm tư duy suy xét mọi vấn đề một cách cẩn thận, không vội vàng hấp tấp, làm ẩu.  

25.     V.v...

Mỗi ngành nghề trong cuộc sống đều cần đức tĩnh giác chánh niệm để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ các loài vật.
 Do vậy đức tĩnh giác chánh niệm rất quan trọng trong đời sống và trong đạo, chúng giúp cho con người từ si mê trở nên sáng suốt, từ thiếu cẩn thận trở nên luôn tĩnh giác, quan sát nhìn rõ mọi việc. Không vội vàng hấp tấp, bình tĩnh từ tốn giải quyết mọi việc ổn thỏa vừa lòng mọi người, không tổn thương đến ai.
B/ Trong ngũ triền cái có si triền cái là hôn trầm thùy miên, cái buồn ngủ, cái ham ngủ. Chính nó làm cho mình ngu, lười biếng, không siêng năng, làm cho mình không sáng suốt, làm cho mình không có trí tuệ, làm cho mình là người sống thiếu đức thiếu hạnh, tham ăn, tham ngủ,...
Dùng định chánh niệm tỉnh giác để phá hôn trầm thùy miên, tu định chánh niệm tỉnh giác thì phải đi kinh hành, chứ không phải ngồi yên một chổ. Đi kinh hành ở đây không có nghĩa là tập trung liên tục vào tĩnh giác đó, tĩnh giác vào bước đi của mình. Vì sức tỉnh thức của mình chỉ có 1 phút à, mà bây giờ mình đi hoài cho hết buồn ngủ, mình cứ tập trung như vậy thì ức chế nó, làm cho mình sanh loạn tưởng, tu như vậy là sai.
Do chổ tu tập không đúng cách, mình đi kinh hành, nên đi một cách thư giản của mình và mình chỉ nhắc: “cái hôn trầm này phải rời khỏi cái thân này, không được ở đây ” đi với cách không được tập trung vào bước chân đi. Chủ yếu ở đây là mình làm sao cho cái thân mình động để không buồn ngủ, và thường xuyên mình nhắc “cái hôn trầm hãy đi đi, không được ở đây”. Nhắc như vậy, nhưng mà phải đi, chứ không phải ngồi đó. Nhắc và đi, đừng tập trung vào bước chân vì sức tỉnh thức của mình chưa đủ 30 phút hoặc 1 tiếng động hồ để hết hôn trầm, ở đây mình chỉ đi tới đi lui, đi qua đi lại, có lúc mình thấy khỏe thì mình nhắc: “đi kinh hành tồi biết tôi đi kinh hành” Cứ đi, cứ động thân, miển sao phá cho sạch cái hôn trầm này.
Có lúc khi đi mình dùng định vô lậu, suy tư về tâm si, về hôn trầm thùy miên, si là ngu, là lười biếng, là làm cho mình không sáng suốt, làm cho mình không có trí tuệ, làm cho mình là người thiếu đức thiếu hạnh, tham ăn, tham ngủ, do đó phải đi, đi đến cho hết rồi mới không đi, không được nghe theo lười biếng mà nằm xuống. Ra lệnh như vậy mạnh lên, làm cho nghị lực của ta mạnh lên trên từng bước đi.
Do vậy khi chúng ta dùng pháp hướng, nhiệt tâm, tinh cần khắc phục thì cái hôn trầm thùy miên sẽ hết.
Khi bị hôn trầm thùy miên thì bỏ hết những pháp khác, chỉ lấy định chánh niệm tỉnh giác mà phá 
cho được hôn trầm thùy miên. 

285-ĐỨC IM LẶNG NHƯ THÁNH

 

285-ĐỨC IM LẶNG NHƯ THÁNH

Người sống với đức im lặng như thánh là người biết tư duy suy nghĩ trước lời nói của mình. Luôn quán xét xem những lời nói đó có đem đến sự đau khổ, buồn bực, tức giận cho mình và cho người hay không. Nếu có thì không nói im lặng, còn không thì mới nói.

Người sống với đức im lặng như thánh là người có đức nhẫn nhục. Bởi vì trước lời nói mạt sát, mạ lỵ, chê bai, chỉ trích, nói xầu, đánh đập, tra tấn, giết hại, hâm dọa, nói oan ức, v.v… người có đức im lặng như thánh biết rằng chỉ cần mình mở miệng ra là sẽ như đổ dầu vào lửa sẽ làm cho người kia phẫn nộ hơn, giận dữ hơn, hung tợn hơn. Chính điều đó sẽ làm khổ người kia, làm cho lòng hận thù của họ càng mãnh liệt sẽ gây hại đến họ, làm họ mất tự chủ sẽ phản ứng tự vệ rất là khó đoán trước chuyện gì xảy ra.

Do hiểu rõ những hoàn cảnh trên, người có đức im lặng như thánh nhẫn nhục im lặng để làm cho cơn thịnh nộ của người khác giảm xuống, chấp nhận lỗi do mình gây ra hoặc nói lời nói xin lỗi, lời nói nhận lỗi với người khác, vui vẻ bắt tay, đền bù thiệt hại, không truy cứu, dẫn nhau ra tòa tố tụng nữa.

Tất cả những gì xảy ra giữa người và người hằng ngày đều là nhân quả, người thấu suốt nhân quả biết rõ cái quả ngày nay gặp chính là đã từng gieo nhân trong quá khứ, cho nên chấp nhận mọi nghịch cảnh đến một cách thanh thản an vui, không vì bất cứ lý do nào mà phẫn nộ hay giận dữ. Chỉ im lặng chấp nhận tất cả để có thể chuyển đổi nhân quả từ khổ đau thành an vui trong hiện tại và mai sau.


284-CÁCH CHUYỂN HOÁ NHÂN QUẢ/ 3

 

284-CÁCH CHUYỂN HOÁ NHÂN QUẢ/ 3

Đáp III: Đức chấp nhận nhân quả có nghĩa là biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng dù bất cứ một nhân quả nào xảy đến. Đức chấp nhận nhân quả thì phải dùng cả ba đức này thì mới gọi là chấp nhận nhân quả, thiếu một đức thì không thành đức chấp nhận nhân quả. Đây là một câu chuyện nói về đức chấp nhận nhân quả:

“Có một người đánh cá bắt được một con rùa biển. Ông ta đối xử với nó như con của mình. Thế nhưng con rùa biển không ăn uống và cũng không động đậy. Lúc nào nước mắt nó cũng giàn giụa.

Con rùa van xin người đánh cá và nói: - Trái tim tôi ở biển cả, nơi đó có nhà của tôi, có niềm vui của tôi. Xin ông hãy thả tôi ra.

Nhưng người đánh cá không thể thả nó được bởi vì ông rất yêu nó. Một thời gian sau, thấy con rùa yêu quý của mình ngày càng tiều tụy, người đánh cá đau lòng, và quyết định thả nó về với biển.

Một năm sau, vào một ngày nọ, bỗng nhiên ông ta nghe có tiếng gõ cửa, mở cửa ra ông thấy đó chính là con rùa mà ông thả.

Người đánh cá liền hỏi: - Con đã có hạnh phúc rồi, lại còn trở lại đây làm gì?

Con rùa liền đáp: “Hạnh phúc của tôi là do ông mang lại, tôi không thể quên ơn đó.”

Người đánh cá nói: “Thôi con đi đi, chỉ cần con hạnh phúc là được rồi, từ sau không cần phải đến thăm ông nữa.”

Con rùa biển lưu luyến không muốn rời xa ông. Và một tháng sau người đánh cá thấy con rùa quay lại.”

Đức chấp nhận nhân quả tức là LÒNG YÊU THƯƠNG. Ở đâu có lòng yêu thương là ở đó có sự chấp nhận nhân quả. Cho nên chúng ta chấp nhận nhân quả vì chúng ta yêu thương mình, yêu thương người, yêu thương tất cả chúng sinh và ngay cả hoàn cảnh xảy ra chúng ta vẫn yêu thương.

Hỏi 2: Đức vượt qua nhân quả có phải là đức làm chủ nhân quả hay không?

Đáp: Không, đức vượt qua nhân quả và đức làm chủ nhân quả Thầy đã giảng ở trên, nó không phải là một đức. Để Thầy chứng minh thêm đức nhân quả vượt qua bằng một câu chuyện buông xả: “Thổ dân Phi Châu có một tuyệt chiêu vô cùng thông minh khi đi săn khỉ đầu chó. Họ để thức ăn mà Khỉ thích, đặt vào miệng một cái bình lớn và đề cho khỉ đầu chó núp ở chỗ xa nhìn thấy. Khi họ đi xa rồi thì khỉ đầu cho vui mừng nhảy tới, dùng tay thò vào bình, quặp lấy thức ăn, nhưng do miệng bình rất nhỏ, khi tay của nó nắm thành nắm thì rất khó rút ra, lúc bấy giờ người thợ săn chỉ việc bình tĩnh đến bắt con vật, mà không lo nó bỏ chạy. Do khỉ đầu chó không thể bỏ thức ăn khoái khẩu của mình, nên càng sợ hãi và vội vàng nắm chặt lấy thức ăn, và càng không thể rút tay ra khỏi miệng bình.

Có người nghe câu chuyện liền thốt lên: “Thật là tuyệt diệu”. Chiêu này tuyệt ở chỗ con người đem tâm lý của mình suy xét tới các loài động vật khác. Kỳ thật con khỉ đầu chó chỉ cầu buông tay ra là nó có thể thoát, thế nhưng nó lại nhất định không chịu buông tay ra. Chính điều này cho ta thấy rằng, con khỉ đầu chó giống con người, cũng có thể nói người giống khỉ đầu chó. Cử chỉ của khỉ đầu chó là một bản năng không ý thức, không rời nó được, mà con người nếu như giống khỉ đầu chó chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. Chết không buông tay, đó chỉ có thể trách họ u mê không tỉnh ngộ.

Người xưa nói: “Lùi một bước trời cao biển rộng”. Người thất tình chỉ cần chấp nhận quên người đã bỏ mình thì đâu đến nổi làm cho bản thân hồn siêu phách lạc, lòng dạ băng giá. Người thất nghiệp chỉ cần từ bỏ cách lựa chọn nghề cứng nhắc của mình mà thay đổi thì đâu đến nỗi suốt ngày ủ rủ, trách trời trách người đây? Con bạc chỉ cần buông tha ý nghĩ may rủi thì đâu đến nỗi tiền đi không trở lại, khuynh gia bại sản? Con nghiện chỉ cần tránh xa chất gây nghiện thì đâu đến nỗi thân tàn ma dại? người hối lộ, người phá kỷ cương chỉ cần chấp nhận từ bỏ chữ “tiền” thì đâu đến nỗi phải vào tù, thậm chí mất mạng”

Câu chuyện trên đây để xác định được đức vượt qua bằng đức buông xả, nhờ có buông xả mà vượt qua nhân quả. Bản chất con người không buông xả, do không buông xả mà con người phải chịu vô cùng khổ đau.

Tất cả các pháp đều vô thường, nên chúng là khổ đau, vì thế ai biết buông xả là người thoát khổ, còn ai không biết buông xả thì khổ đau không bao giờ dứt. Người tu theo Phật giáo cũng chỉ có việc buông xả mà chứng đạo.

Con người ở đời rất là u mê, chết không mang theo vật gì, vậy mà sống thì ôm đồm không dám buông xả cứ khư khư giữ chặt, cho nên chịu khổ là phải. Vậy mà ở đây có người tu hành lại phóng dật thưa hỏi lung tung. Sao không biết buông xả xuống đi để thân tâm được giải thoát trong trạng thái tâm bất động, chỉ được im lặng một chút xíu là thưa hỏi Thầy lăng xăng, đó không phải là phóng dật sao?

Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng còn chi lại nữa.
Vạn sự vô thường buông xuống đi!

Bốn câu kệ này là lời nhắc nhở mọi người tu hành cần phải buông xả thế mà quý vị có buông xả đâu cứ thưa hỏi điều này thế kia để huân tập thêm sự hiểu biết, sự hiểu chỉ là cái tủ đựng kinh sách rộng tếch chẳng có ích lợi gì.

Sợ các con không biết buông xả cho nên Thầy dạy thêm một bài kệ nữa nói lên phương pháp tu tập nhưng nào ngờ các con có tu tập chỗ nào đâu, cứ phóng dật lung tung thưa hỏi những điều vớ vẫn, nên ngậm im miệng lại để nó mốc meo thì may ra mới chứng đạo. Nếu thấy tu không được, tâm phóng dật thì về trông nôm con cháu, nhà của còn có ích lợi hơn.

Tác ý đi, hãy tác ý đi!
Bất động, thanh thản, chẳng sầu bi.
Tác ý đi, còn lo chi nữa.
Giải thoát đây rồi, tác ý đi!

Buông xuống tất cả các pháp tức là vượt qua xin các con hãy ghi nhớ khắc trong lòng mà cố gắng tu tập buông xả đừng nên mượn cớ này cớ khác để hỏi Thầy là các con bị tâm mình lừa gạt phá hạnh độc cư để thỏa mãn tâm phóng dật.

Một lần nữa Thầy xin nhắc lại các con BUÔNG XUỐNG TẤT CẢ thì ngay liền tâm BẤT ĐỘNG, đó là giải thoát của Phật Giáo. BẤT ĐỘNG là VƯỢT QUA NHÂN QUẢ các con có hiểu chưa?

( Thầy Thích Thông Lạc trả lời thư của Kim Quang)

283-CÁCH CHUYỂN HOÁ NHÂN QUẢ/ 2

 

283-CÁCH CHUYỂN HOÁ NHÂN QUẢ/ 2

Đáp II: Đức làm chủ nhân quả có nghĩa là từ hành động thân, miệng, ý của mình, trước khi làm hay nói chúng ta đều có sự suy tư tính toán mỗi hành động không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh rồi mới nói hay làm. Đó là cách thức làm chủ nhân quả.

Làm chủ nhân quả tức làm lợi ích cho người khác, vì thế ai cũng làm như vậy là đã làm chuyển đổi nhân quả ác trở thành nhân quả thiện. Từ cảnh giới Địa ngục để trở thành cảnh giới Thiên đàng chỉ có hành động làm lợi ích cho người, đừng vì lợi ích cho mình. Đây là một câu chuyện làm chủ nhân quả: “THIÊN ĐÀNG VÀ ĐỊA NGỤC”

“Có một người đi tham quan Thiên đàng và Địa ngục. Trước tiên anh ta tới Địa ngục. Ở đó anh ta thấy một cảnh tượng lạ lùng: Trước mắt mọi người có rất nhiều món ăn ngon, nhưng không ai ăn được. Cho dù họ ngồi bên bàn rượu, nhưng người nào cũng còn da bọc xương, mặt mày ủ rũ.

 Anh lại phát hiện ở cánh tay phải mỗi người buộc một cái đĩa, cánh tay trái buộc một con dao, chuôi dao và đĩa dài độ 4 phân, làm cho họ không thể nào ăn được, vì vậy mà ai cũng bị đói.

 Tiếp đó anh ta lại đến Thiên đàng. Cảnh tượng ở đây cũng chẳng có gì khác, chuôi dao và đĩa cũng dài 4 phân, nhưng những cư dân Thiên đàng đều ca hát, nói cười vui vẻ.

 Anh ta nghi hoặc nhưng cuối cùng cũng tìm ra được câu trả lời. Đó là ở Địa ngục mọi người đều muốn gắp cho mình ăn, vì thế mà không ai ăn được, còn ở Thiên đàng thì mọi người đều gắp cho người ngồi đối diện với mình và cũng được người ngồi đối diện gắp lại, vì vậy mọi người cùng giúp đỡ lẫn nhau nên ai nấy đều có thể ăn uống rất vui vẻ.”

 Đọc câu chuyện này quí vị nghĩ sao về nhân quả? Nếu mọi người hiểu biết về nhân quả thì nên sống vì mọi người, sống vì mọi người thì cuộc sống của chúng ta là Thiên đàng quý vị ạ! Sống vì mọi người rất hạnh phúc, tại sao vậy? Vì mọi người có an vui thì sự an vui của mình mới lâu dài.

 Nhìn lại cuộc sống của chúng ta hiện giờ như thế nào? Hầu hết mọi người chỉ biết nói nhân quả nhưng chưa thật sống với nhân quả. Cho nên cuộc sống của loài người trên thế gian là Địa ngục, vì con người chỉ biết sống vì mình, chớ không vì người khác, vì vậy mà sự xung đột và chiến tranh thường xảy ra khắp trên thế giới không nước này thì nước khác. Đó là sống phi nhân quả nên loài người phải chịu mọi khổ đau cũng chính nhân quả mình làm mình chịu.


282-CÁCH CHUYỂN HOÁ NHÂN QUẢ/ 1

 

282-CÁCH CHUYỂN HOÁ NHÂN QUẢ/ 1

Hỏi: 1- Đức vượt qua nhân quả, đức làm chủ nhân quả, đức chấp nhận nhân quả, ba đức này có nghĩa là gì? Và có sự khác nhau như thế nào?

Ba đức này có ý nghĩa khác nhau.

Đáp I: - Đức vượt qua nhân quả có nghĩa là nhân quả đến mà không tác động được thân tâm chúng ta. Ví dụ: Có người mắng chửi chúng ta, chúng ta nghe thấy biết rất rõ ràng nhưng tâm chúng ta không có chút sân giận. Và cũng không phân bua phải trái với người ta, thường sẵn sàng giúp đỡ người mắng chửi mình khi họ gặp nhân quả xấu. Dưới đây là một câu chuyện vượt qua nhân quả: “HẠT GIỐNG LUỘC CHÍN”

“Ngày xưa tại một vương quốc nọ, có một vị vua anh minh luôn được mọi người yêu mến. Ngài luôn buồn rầu vì tuổi đã cao mà chưa có con để truyền ngôi. Một hôm vua nói với các quần thần: “Ta phải đích thân đi tìm một đứa trẻ thật thà làm con nuôi để sau này có người kế vị”. Thế rồi vua truyền lệnh phát cho những đứa trẻ trong toàn vương quốc một số hạt giống và tuyên bố: “Nếu ai trồng được một chậu hoa đẹp nhất từ những hạt giống này, người đó sẽ được thừa kế ngôi báu”. Tất cả trẻ con đều hăm hở đem hạt giống về trồng, ngày đêm chăm sóc. Trong số đó có một cậu bé cũng chăm chỉ chăm sóc cho hạt giống nhưng mãi không thấy hạt giống nảy mầm. Cậu còn thay đổi đất trong chậu nhưng vẫn không thấy kết quả. Ngày dâng hoa cho vua xem đã đến, tất cả mọi đứa trẻ đều mang những chậu hoa rực rỡ của mình tới trước cung điện, vua đi xem khắp một lượt nhưng trên nét mặt không hề có chút vui tươi. Bổng vua nhìn thấy lẫn trong đám đông có một đứa trẻ tay bưng một chiếc chậu không, với nét mặt buồn thiu. Vua lại gần hỏi vì sao thì cậu bé òa khóc lên và kể lại cho vua nghe việc mình trồng hoa như thế nào mà hạt giống không nảy mầm. Cậu còn nói đây có thể là sự trừng phạt vì cậu đã từng ăn trộm táo ở vườn nhà người láng giềng. Nhà vua nghe xong rất đổi vui mừng. Ngài kéo cậu bé vào lòng và nói: “Đây chính là cậu bé thật thà của ta”. Mọi người thấy vậy ngạc nhiên hỏi: “Tại sao nhà vua lại chọn một đứa trẻ đưa chậu hoa không tới để kế thừa ngai vàng vậy?”. Nhà vua mỉm cười đáp: “Hạt hoa giống ta giao cho mỗi đứa trẻ đều là những hạt giống bị luộc chín!”. Nghe xong lời của nhà vua, những cậu bé bưng trên tay những chậu bông rực rỡ đều xấu hổ, mặt đỏ và cúi đầu im lặng”.

 Câu chuyện trên đây chỉ cho chúng ta vượt qua nhân quả. Vượt qua nhân quả chỉ có LÒNG THÀNH THẬT mà thôi, câu chuyện trên đây tuy đơn sơ nhưng rất thấm thía cho cuộc đời mà con người hay phạm và lỗi lầm này. Theo đức Phật dạy: “Nhân quả chỉ có vượt qua”, mà vượt qua nó bằng ĐỨC THÀNH THẬT. Cho nên mình làm điều gì ác hay thiện chỉ có đức thành thật thì sẽ vượt qua mọi nhân quả ác thiện. Quí vị nên nhớ lời Phật dạy này: “Đứng lại thì chìm xuống. Tiến tới thì trôi dạt. Chỉ có vượt qua”.


281-NHÌN ĐỜI BẰNG ĐÔI MẮT NHÂN QUẢ THIỆN ÁC THÌ CUỘC SỐNG MỚI CÓ HẠNH PHÚC, AN VUI

 

281-NHÌN ĐỜI BẰNG ĐÔI MẮT NHÂN QUẢ THIỆN ÁC THÌ CUỘC SỐNG MỚI CÓ HẠNH PHÚC, AN VUI

(Trích: “Đường về xứ Phật” – Tập 10, trang 172-174)

HỎI: Kính bạch Thầy! Y lời Thầy dạy, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thiện ác, thì ngày nay ở đời thấy biết bao nhiêu sự bất công như: có kẻ chủ mưu dao đâm gậy đánh người và hay quậy phá mất đoàn kết, chỉ vì mưu đồ tham lam lấn chiếm mọi mặt nhưng lại được quan trên che chở, còn những người hiền đức đang bị o ép đủ đường. Xin Thầy từ bi giảng dạy cho chúng con sự nhẫn nhục với những hạng người này, như thế nào để khỏi ảnh hưởng về đường tu tập của chúng con ạ.

ĐÁP: Trong sự tu tập theo Phật giáo với đôi mắt nhân quả nhìn đời thì các con phải nhớ ghi khắc trong lòng ba điều kiện này:

1- Khi tâm còn yếu tức là sức tỉnh thức chưa đủ và pháp hướng tâm chưa có lực thì đương đầu đối với những người thiếu đạo đức như du đãng côn đồ, thì chúng ta nên tránh xa họ, đừng làm quen thân với những người này, vì đương đầu với họ xả tâm rất khó khăn, nhiều khi bị ức chế tâm thành ra tự mình làm khổ sở cho mình vô cùng vô tận. Vì thế, đức Phật dạy: “Sống với thiện”, sống với thiện tức là sống với những người có đạo đức, những người có đạo đức là những người lành, ngược lại là những người ác.

2- Khi tâm chúng ta có phần xả nhiều có nghĩa là tâm tỉnh thức đầy đủ và pháp hướng tâm có hiệu quả tức là tâm có đạo lực, thì lúc bấy giờ chúng ta lấy những người ác làm đối tượng để tu tâm nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng thì kết quả giải thoát ngay liền, tức là tu tập tâm bất động trước các ác pháp, nếu tâm thật sự bất động thì đó là chúng ta đã nhập Bất Động Tâm Định. Bất động tâm định là một loại thiền định giải thoát tâm hoàn toàn sống trong trạng thái Niết bàn của chư Phật mười phương. Tâm trạng người thế gian không bao giờ sống và vào đó được. Tại sao vậy? Vì tâm người thế gian còn vọng động, ham thích.

3- Khi đương đầu với ác pháp gặp các quan ăn lo của hối lộ, che chở cho những kẻ làm ác hại dân hại nước thì tìm mọi cách tố cáo những kẻ này cho các cấp có quyền thế lo cho dân cho nước để trừng trị tội lỗi họ, chứ không được bỏ qua vì đây là làm lợi ích cho mọi người, cho xã hội, cho dân, cho nước.

Do biết tu tập đúng như ba phương tiện ở trên thì không có ảnh hưởng vào đường tu tập của các con, mà còn có nhiều lợi ích rất lớn cho đời sống, cho đạo của mình, của người.


280-PHẢI NHÌN ĐỜI BẰNG NHÂN QUẢ

 

280-PHẢI NHÌN ĐỜI BẰNG NHÂN QUẢ

(Trích: “Đường về xứ Phật” – Tập 10, trang 33)

Muốn không làm khổ mình, khổ người, trước tiên phải tu tập những đức hạnh: Nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Vậy nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng như thế nào?

Khi nào gặp ác pháp, khiến tâm bất an, tức giận thì nên dùng pháp hướng tâm như lý tác ý: “Cái tâm sao ngu si lại tự tạo cho mình khổ, họ làm ác là họ tự chịu cớ sao ta lại tức giận làm khổ ta” hoặc “Cái tâm không được tức giận, tức giận là khổ đau, là ác pháp”. Nên lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy thì tâm sẽ hết ngay. Khi tác ý câu trên xong thì nương vào hơi thở và tác ý: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra”. Tu tập như vậy trong năm phút rồi xả nghỉ thì tâm sẽ hết sân liền.

Thường cuộc sống của chúng ta có nhiều ác pháp xảy đến khiến tâm chúng ta bất an, điều duy nhất muốn cho tâm được an thì chúng ta phải tập nhìn đời bằng tri kiến nhân quả.


279-NHÌN ĐỜI BẰNG ĐÔI MẮT NHÂN QUẢ

 

279-NHÌN ĐỜI BẰNG ĐÔI MẮT NHÂN QUẢ

(Trích: “Đường về xứ Phật” – Tập 5, trang 256-260)

HỎI: Kính thưa Thầy! Một người học Phật phải nhìn cuộc đời như thế nào để không bị đắm chìm, lôi cuốn theo những lạc thú tầm thường của thế gian, nhưng cũng không bị người đời lên án là tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm, v.v…

ĐÁP: Một người học Phật phải nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, nên không tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm.

Người học Phật phải có tri kiến nhân quả, tri kiến thập nhị nhân duyên, tri kiến thập thất kiết sử, tri kiến ngũ uẩn, tri kiến ngũ triền cái, tri kiến về các pháp bất tịnh, tri kiến các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, tri kiến về lòng từ, bi, hỷ, xả, v.v…

Nếu có những tri kiến như vậy thì người này sẽ không bị đắm chìm, lôi cuốn theo những lạc thú tầm thường của thế gian. Muốn có những tri kiến này thì người học Phật nên nghiên cứu kinh sách Nguyên Thủy, vì trong đó dạy rất đầy đủ và dễ hiểu. Không nên nghiên cứu kinh sách phát triển vì kinh sách này sẽ gieo vào đầu óc của các bạn một thế giới ảo tưởng, mơ hồ, trừu tượng, phi đạo đức. Một khi các bạn đã chịu ảnh hưởng của nó thì các bạn giống như người nghiện thuốc phiện, muốn bỏ mà rất khó bỏ.

Những người Cư sĩ Phật tử hiểu sao về đạo Phật có tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm không?

Về đạo Phật là phải có một tinh thần tích cực, tự lực trong sự tu tập các pháp môn; phải tích cực, tự lực chiến đấu với nội tâm của mình khi có ác pháp xâm chiếm để đem lại sự thanh bình cho tâm hồn; phải tích cực chiến đấu với ngoại pháp để đem lại cho mọi người một sự an ổn, một xã hội có trật tự.

Về đạo Phật có hai giới tu tập:

1/ Cư sĩ
2/ Tu sĩ

Cư sĩ thì phải tu theo pháp của người cư sĩ. Pháp của người cư sĩ tu tập là một nền đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình, khổ người thì làm sao có sự tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm được. Nếu tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm là làm khổ mình, khổ người thì đâu có đúng chánh pháp. Có lẽ người cư sĩ Phật tử đã hiểu sai pháp Phật, không hiểu về pháp tu tập của người tu sĩ. Phần nhiều người cư sĩ Phật tử mới vào đạo đều được dạy tu tập Thọ Bát Quan Trai và được tham dự học tu vào lớp Chánh kiến đầu tiên của đạo Phật.

Người cư sĩ chỉ sống có một ngày Thọ Bát Quan Trai như người tu sĩ mà thôi. Một tháng chỉ sống có một hoặc hai ngày thì đâu thể nào gọi là tiêu cực, vô cảm, lãnh đạm được.

Phật dạy chúng ta biết ác pháp và thiện phápác pháp thì nên tránh và diệt để đem lại cho mình cho người hạnh phúc an vui chứ đâu phải lãnh đạm, vô cảm.

Ví dụ: Trong bữa tiệc mọi người ép chúng ta uống rượu, chúng ta từ chối không tùy thuận theo các ác pháp này thì bảo rằng chúng ta lãnh đạm thì không đúng.

Chúng ta cương quyết làm được điều này là làm gương tốt đẹp cho người khác, để mọi người tránh thứ độc dược hại này.

Cho nên, đạo Phật không phải là đạo yếm thế, tiêu cực, lãnh đạm, vô cảm, v.v… Người hiểu đạo Phật yếm thế, lãnh đạm, vô cảm là người hiểu sai đạo Phật.

Đạo Phật là đạo đức của loài người, nhờ đạo đức mới xây dựng thế gian này được an ổn và yên vui cho mọi người; nhờ đạo đức mà con người không làm khổ cho nhau. Vậy chúng ta là con người cần phải học đạo đức nhân bản – nhân quả. Nếu chúng ta không học đạo đức thì chúng ta tự làm khổ cho nhau và cuộc sống trên thế gian này trở thành địa ngục. Phải không các bạn? Bằng chứng hiện giờ chúng ta đã chứng kiến cảnh địa ngục: chiến tranh, khủng bố, thiên tai, hỏa hoạn, bão tố, động đất, sóng thần, lũ lụt, v.v…

Ví dụ: Tình nghĩa vợ chồng là phải gần gũi nhau, chia sẻ nhau những nỗi buồn vui, thế mà xa lánh nhau, lạt lẽo, lãnh đạm tình chồng nghĩa vợ để gọi là tuyệt dục thì đức Phật đâu có dạy bao giờ. Mà đức Phật dạy không nên tà dâm, dâm dục phải tiết độ, vì tà dâm là làm hại gia đình mất hạnh phúc, dâm dục không tiết độ sẽ đem đến thân bệnh tật, mà thân bệnh tật, đau khổ thì sự an vui hạnh phúc gia đình mất.

Đạo Phật nói đời khổ là để vượt qua mọi sự đau khổ của cuộc đời, chứ không có nghĩa là trốn tránh khổ, nói cách khác cho đúng nghĩa của đạo Phật là làm cho đời hết khổ. Làm cho đời hết khổ là phải tích cực hết mình. Vì thế, mà đạo đức của đạo Phật là đạo đức không làm khổ mình, khổ người.


278-THAY ĐỔI NGUYÊN NHÂN SINH RA NHÂN QUẢ

 

278-THAY ĐỔI NGUYÊN NHÂN SINH RA NHÂN QUẢ

Nhân quả rất công bằng, nếu không có nhân tất không có quả, có quả tức đã gieo nhân. Muốn không có quả thì hãy thay đổi nhân. Thường trong cuộc sống chúng ta chỉ lo thay đổi quả bằng ngọn mà thôi, chứ không thay đổi gốc. Có bệnh, bác sĩ cho uống thuốc để hết bệnh đó là trị bệnh bằng ngọn, không trị gốc. Đó là cách trị tạm thời.

1/ Nếu chúng ta nhìn mọi việc dưới con mắt nhân quả thì chúng ta sẽ thấy rõ tại sao lại có nhiều tham ô, tham nhũng. Đó là quả . Nếu mỗi người chúng ta không gieo nhân tham lam thì làm sao gặp được quả có những vị quan tham như vậy. Muốn thay đổi quả chúng ta phải thay đổi nguyên nhân sinh ra quả chứ không thể thay đổi quả được. Thay đổi quả chỉ là tạm thời, hết quả này thì quả khác sẽ có. Bắt được người tham này sẽ lòi ra nhiều tên tham  khác. Chính tất cả phải thay đổi chính mình, từ bỏ tâm tham, gian lận, dối gạt, hơn thua, hối lộ, ...

2/ Khắp nơi trên thế giới đều có thiên tai, sóng thần, lũ lụt, bão to gió lớn, động đất, núi lửa, cháy rừng, dịch bệnh,...Đó là quả. Khoa học ngày càng tiến bộ, họ tìm đủ mọi cách để đối phó, ngăn chặn thiên tai,...Nhưng những gì họ làm chỉ là muốn xử lý cái quả đó, cái ngọn đó thôi, chứ họ không truy tìm nguyên nhân có thiên tai, dịch bệnh,.... Do vậy dù cho họ có tiến bộ, văn minh đến đâu cũng không bao giờ tiêu diệt được những thiên tai đó. Thiên tai sẽ xảy ra hết chỗ này đến chỗ khác, hết năm này đến năm khác. Hết bệnh này đến bệnh khác sẽ luôn xuất hiện. Muốn thay đổi nhân quả thiên nhiên thì phải thay đổi nguyên nhân tạo ra nó. Trong thiên nhiên lấy sự sống làm cốt lõi, ai tiêu diệt sự sống tất sẽ phải hứng chịu tai nạn xảy đến với sự sống, mạng sống của mình. Con người chính là thủ phạm đó, hằng ngày có hằng triệu các loài động vật bị con người giết  và ăn thịt. Do vậy con người phải trả giá chính bằng những tai nạn, thiên tai, bệnh tật nguy hiểm xảy đến hoặc đe dọa mạng sống của chính họ và những người xung quanh.

3/ Nếu chúng ta không gieo nhân tôn thờ những thần thánh, tạc tượng đúc chuông, mê tín thì làm sao chúng ta gặp phải những người sẵn sàng bỏ trăm ngàn tỷ đồng ra đúc tượng ông này bà nọ ? Trách ai đây.

 Chúng ta phải thay đổi nhân quả bằng cách nào. Phải thay đổi bằng nền giáo dục đạo đức, cần có một nền giáo dục lấy đạo đức làm căn bản, làm cốt lõi đào tạo những con người không còn tham lam, xem thường tham lam, quý trọng sự sống của muôn loài...giống như nền giáo dục của Nhật Bản, Úc, Singapore... Chúng ta thấy rõ những vị lãnh tụ Nhật Bản ít ai tham nhũng, họ sẵn sàng xin lỗi, từ chức khi làm sai, họ gánh trách nhiệm, họ làm lãnh đạo vì nước Nhật, vì dân chứ không phải vì bản thân, vì danh vì lợi.

 Một đất nước không có nền giáo dục lấy đạo đức làm cốt lõi thì mọi người dân sẽ không biết quý trọng sự sống, vẫn còn tham danh lợi, vì danh lợi sẵn sàng hy sinh mình, người khác và các loài vật khác, mất hết nhân tính, bất chấp tất cả để đạt được mục đích mà không bao giờ nghĩ đến người khác, loài vật khác. 

 Chỉ khi đất nước có được một nền giáo dục đạo đức biết sống trung thực, ly tham, xem thường danh lợi, thì mới mong có những thế hệ trẻ tài đức trong sạch trọn vẹn. Họ sẽ trở thành những vị quan công chức tốt, công an, cảnh sát, gương mẫu, sống và làm việc phục vụ dân, vì dân, vì đất nước.

 Người có trí tuệ là người có đạo đức, người có đạo đức là người có trí tuệ. Trí tuệ ở đây là biết rõ sống đúng đạo đức sẽ không còn làm khổ mình, khổ người và khổ các loài vật nữa. Người không có trí tuệ chỉ làm theo dục vọng, lòng ham muốn của mình bất chấp nguy hiểm, tai hại ảnh hưởng đến mình, đến người hay các loài vật khác. Người có trí sẽ suy tư kỹ trước mọi lời nói, suy nghĩ và việc làm có đem đến đau khổ hay hạnh phúc cho chính mình, mọi người và các loài vật khác.

 Thay vì trách người, hãy nhìn lại mình trước, thay đổi mình sẽ thay đổi tất cả. Nhân quả luôn có tương ưng, từ trường của người thiện sẽ tương ưng với người thiện, điều lành, từ trường của người ác sẽ tương ưng với người ác và sự kiện ác.


277-NHÂN QUẢ XUNG QUANH

 

277-NHÂN QUẢ XUNG QUANH

Có người đặt câu hỏi: con người từ đâu sinh ra. Đức Phật nói rằng: con người từ nhân quả sinh ra, sống trong nhân quả và chết với nhân quả.

 Vậy hiện tại hằng ngày con người sống trong nhân quả nghĩa là sao ? Điều đó nghĩa là mọi việc xảy ra xung quanh chúng ta trong hiện tại đều là nhân quả. Cụ thể như: 

1/ Là những ý kiến tốt, ý kiến xấu, suy nghĩ tốt, suy nghĩ xấu.

2/ Là những lời nói tốt, lời nói xấu, là khi bị nói oan ức, la mắng, chê bai, trách cứ, là những lời nói vô tâm như con dao sắc đâm nát tâm can, là những lời nói dối, lời nói lừa gạt, tráo trở, thay trắng đổi đen, là những lời nói ly gián, chia rẽ, đâm chọc,... 

3/ Là những hành động tốt, hành động xấu, là bị đánh, bị đâm, bị chém, bị bắn, bị giết, là tai nạn, là khổ vì sanh nhai, là nợ, là bệnh tật, là già, là chết, là thất nghiệp, bị chèn ép, xua đuổi, xem thường, bị phân biệt chủng tộc, bị đối xử như nô lệ, bị tù tội, bị rượt đuổi, ra tòa, hay nằm bệnh viện, thương tật, chết đi sống lại,...
4/ Là hoàn cảnh giàu, nghèo, khỏe hay bệnh, thành công hay thất bại, hạnh phúc hay đau khổ, vui hay buồn, nơi sinh sống, nơi chết, nhiều bạn hay ít bạn, người thương hay người ghét, người giúp hay người hại, người đòi nợ hay trả nợ, cha, mẹ, anh chị em, bà con bạn bè, các loài động vật và cây cỏ xung quanh,...theo tôn giáo, chính tri hay tổ chức nào,...làm từ thiện hay ăn xin,...
5/ Là những chuyện không tin được như thần đồng, thiên tài, khả năng đặc biệt như siêu nhân, siêu trí tuệ,... Hoặc ngược lại có người ngu dốt, tự ti, thần kinh, không coi ai ra gì, thích quậy phá, chơi bời, thích bắn súng, giết người, trộm cắp. Có người thích trở thành bác sĩ, kỷ sư, phi hành gia, nhà khoa học, có người thích làm nông dân, doanh nhân, người thám hiểm, tài tử,...
Tất cả những gì chúng ta thấy xung quanh đều là nhân quả.

Đôi khi chúng ta thấy Nhân quả rất tàn nhẫn, vô tâm, không lý lẽ, không tình thương, không khoan dung tha thứ. Nhưng đã là nhân quả thì nó rất công bằng, bởi vì những gì chúng ta đang đón nhận đều là do nhân chúng ta đã tạo ra trong quá khứ. Quả hiện tại như tấm gương giúp chúng ta thấy được những gì chúng ta đã nói, làm và đối xử với người vật khác trong quá khứ.
Thí dụ như cha mẹ của chúng ta, họ cũng chỉ là những khối duyên nhân quả thường xuyên bị nhân quả chi phối, có khi ta thấy họ rất yêu thương ta, chiều chuộng, nhẹ nhàng. Nhưng cũng có khi họ đánh đập ta rất tàn nhẫn, la mắng, giận dữ, quát tháo to tiếng, luôn dùng thái độ xem thường chúng ta, không coi trọng ý kiến, lời nói và việc làm của chúng ta, họ luôn nghĩ họ đúng, chúng ta làm gì cũng sai, luôn bị họ quát mắng, tư tưởng ý kiến luôn bất đồng,...Tất cả những hành động, lời nói, ý kiến vô minh của họ đều đang bị nhân quả của họ điều khiển và sai khiến. Họ thật đáng thương, không làm chủ được tham, sân si mạn nghi, do vậy bị chúng điều khiển và sai khiến. Chính vì vô minh, họ không phân biệt được thiện ác, nên họ vẫn đang sống làm khổ họ, khổ người và làm khổ các loài vật khác mà không biết. Càng ngày càng tạo thêm nghiệp khổ cho chính họ và người khác.

Nhân quả tốt thì ít, nhưng nhân quả xấu thì nhiều, mà còn liên tục, mãi mãi dai dẳng kéo dài cho đến hơi thở cuối cùng của cuộc đời. 

Im lặng, nhẫn nhịn nhìn nhân quả đến từng giây, từng phút, từng ngày, chúng ta mới cảm nhận được cuộc đời này đúng là khổ, không đáng cho chúng ta lưu luyến. 

Nhờ im lặng, nhẫn nhịn và biết yêu thương tha thứ, nhân quả sẽ tự thay đổi. Do đó chúng ta cảm nhận được sự vô thường của chúng. Sự trui rèn và giác ngộ đó rất có ích cho tâm cảnh của chúng ta. 

Dù nhân quả gì cũng từ duyên mà ra, đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan. Duyên có duyên trong, duyên ngoài. Duyên trong có thể là tâm tham, sân, si, mạn, nghi, là sự sợ hãi, lo lắng, đau khổ, phiền não, là nóng là lạnh, là yếu là khỏe, là nội tạng, là vi trùng, ... Duyên ngoài có thể là cảnh vật, hình dáng, âm thanh, hương, vị, xúc chạm, là ý kiến, lời nói và hành động của người vật khác hoặc hoàn cảnh, điều kiện môi trường, thời tiết xung quanh,... 

Nếu  đủ duyên trong và ngoài kết hợp thì sẽ có nhân quả, nhưng nếu chỉ có duyên trong mà không có duyên ngoài hoặc có ngoài mà không có trong thì nhân quả sẽ không thành. Ví dụ: khi trong tâm có sân thì khi nghe ai la mắng mình, mình sẽ giận và la mắng lại. Nhưng nếu không có tâm sân giận thì dù ai la mắng mình mình cũng không giận và không la mắng lại. Hoặc dù cho tâm có sân nhưng bên ngoài không ai la mắng mình thì mình cũng không tự giận mà la mắng người khác. 
Thấu triệt được nhân quả để thấy không có cái ngã, cái tôi, cái của tôi, không có mình, không có người khác, không người thân, tất cả chỉ là duyên nhân quả mà thôi. Có như vậy chúng ta mới có thể bất động, thay đổi nhân quả.


276-HIỂU RỎ NHÂN QUẢ

 

276-HIỂU RỎ NHÂN QUẢ

Nói đến nhân quả thì mọi người đều hiểu đại khái sơ sơ, loại như: “ Gieo gió gặt bão, gieo nhân nào gặt quả ấy “ Vậy cụ thể nhân quả thể hiện như thế nào trong đời sống. 

Người hiểu rõ nhân quả thì họ luôn nhìn đời với đôi mắt nhân quả, nghĩa là mỗi mỗi 1 chuyện xảy ra xung quanh chúng ta đều là nhân quả, dù là một chuyện nhỏ như hột cát, cây kim. Từng chuyện xảy ra hằng ngày, hàng phút, hàng giây đều là nhân quả, nhìn thấy quả biết nhân, nhìn thấy mình đang gieo nhân gì thì biết sẽ gặp quả đó trong tương lai. 

Ngoài ra, họ còn hiểu rõ tính chất của nhân quả. Vậy nhân quả có bao nhiêu tính chất? Rất nhiều, đại khái tôi xin liệt kê vài cái đơn giản mà tôi biết:

-Tính chất một nhân có nhiều quả. 

-Tính chất quả luôn to hơn nhân. 

- Tính chất một quả có nhiều nhân. 

- Tính chất nhân nào quả đó. Quả nào nhân đó. 

- Tính chất thiện và ác. 

- Tính chất vô thường. 

- Tính chất chuyển đổi, chuyển hóa. 

- Tính chất hiện tại tái sanh. 

-Tính chất công bằng. 

-  V. V…

 Để tìm rõ về những tính chất trên chúng ta hãy luôn liên hệ nhân quả đời sống con người giống như nhân quả thực vật. Vì con người, động thực vật đều tồn tại trong một môi trường vũ trụ nhân quả cho nên nhân quả của con người, của vũ trụ, của thiên nhiên thời tiết,… Không khác gì so với nhân quả thực vật. 

1/ Tính chất một nhân có nhiều quả: gieo 1 hạt chanh, 1 hạt đu đủ,… đều cho ra trái nhiều quả chanh, nhiều trái đu đủ. Gieo nhân mắng chửi người ta thì coi chừng bị nhiều người, nhiều lần bị người khác mắng chửi lại. Không những bị mắng không mà có khi còn bị đánh, bị đập, bị đâm, bị bắn, bị giết,.. 

2/ Tính chất quả luôn to hơn nhân: điều này ai cũng biết trái quả nào đều to hơn hạt. Một lời nói không vừa lòng nhau có thể dẫn đến nhiều sự hiểu lầm và những việc xảy ra trầm trọng khác như cãi vả, nghi kỵ, mất lòng tin,… Giống như có câu “ Chuyện nhỏ xé to “

3/ Tính chất một quả có nhiều nhân. Trong một trái chanh, trái đu đủ có rất nhiều hạt. Khi bị mắng chửi trong tâm chúng ta ai cũng đều có sự giận dữ, nóng giận, muốn mắng chửi lại, muốn đánh, muốn vả, muốn đâm, muốn chém, muốn giết hoặc là ngược lại chỉ nhẫn nhịn, im lặng, yêu thương, tha thứ. Tất cả những tâm trạng đó đều là nhiều nhân từ 1 quả bị mắng chửi. 

4/ Tính chất nhân nào quả đó. Quả nào nhân đó. Gieo hạt chanh sẽ cho ra trái chanh, chứ không thể hái được quả đào hay đu đủ. Nhìn trái chanh thì biết do gieo hạt chanh mà có. Quả có thân bị bệnh đau nhức, bị đủ loại bệnh,.. Bị người khác đâm, chém, giết là do đã gieo nhân xem thường mạng sống của các loài động vật khác, là do gieo nhân dùng dao cắt họng, thọc bụng,  làm thịt, cạo da,  giết hại và ăn thịt các loài vật khác. 

5/ Tính chất vô thường. Vô thường là luôn thay đổi, không bền chắc. Dù là trái quả nào chín xong rồi cũng héo tàn, vị ngọt thành nhạt dần, không thể nào mãi mãi ngọt. Dù chúng ta gặp chuyện tốt hay xấu nào xảy đến, những chuyện đó rồi cũng qua, không ai mỗi lần mua vé số đều trúng, không ai gặp chuyện xấu chuyện xui mãi. 

6/ Tính chất chuyển đổi, chuyển hóa. Với thời đại công nghệ khoa học cao như ngày nay, con người đã cải tiến những thực vật có tính chất xấu thành tốt hơn như các giống lúa tăng năng suất, thơm hơn, mềm hơn, hoa đủ mày, đẹp hơn, trái cây ngọn, bổ, đẹp và ít hột hơn. Nhân quả là có thể thay đổi, chúng ta đang sống trong môi trường nhân quả, nhân quả luôn thay đổi, không cố định, là vô thường. Chỉ cần chúng ta luôn biết giao nhân thiện thì sẽ gặt quả thiện, không còn gieo nhân ác nữa thì cuộc đời này không phải là thiên đường sao. Do vậy không có định mệnh hay số mệnh mà chỉ có nhân quả. Chúng ta đã biết tính chất trong quả có nhiều hạt do vậy hãy luôn giữ gìn và trao dồi tâm thiện dù bất kỳ chuyện xấu gì xảy ra. 

7/ Tính chất hiện tại tái sanh. Một cây đu đủ có nhiều quả, trong quả có nhiều hạt,. Chúng ta lại tiếp tục lấy những hạt mới đó gieo xuống thì sẽ tiếp tục gặt hái những quả đu đủ mới, cứ như vậy tiếp tục những cây quả cháu, chắt, chít,… của cây đu đủ đầu tiên xuất hiện và tồn tại. Điều tôi muốn nói ở đây là dù đã có cháu, chắt hoặc chít,…nhưng cây đu đủ đầu tiên vẫn có thể còn sống chưa chết. Mỗi một hành động tốt xấu của người tạo ra hằng ngày khi đủ duyên chúng sẽ kết hợp tái sanh ra thành hàng trăm, hàng nghìn con người hay các loài vật khác, chứ không phải chờ khi người đó chết rồi mới có tái sanh. Tái sanh luôn xảy ra trong hiện tại. 

Chính vì biết một nhân luôn có nhiều quả, chứ ít khi có 1 quả, do vậy ai biết sống gieo nhân yêu thương thì sẽ tái sanh làm người trong hiện tại, ai gieo nhân không yêu thương, không quý trọng sự sống của các loài động vật khác thì trong hiện tại nghiệp nhân quả tương ưng tái sanh thành hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn loài vật như gà, vịt, cá, ốc, tôm, cua, chó, mèo để trả nhân quả. Những con người hay các loài động vật đó cũng sẽ bị người khác giết, bị cạo da, bị nướng cháy, bị hỏa hoạn,  bị đâm chém, bị đánh đập hoặc chính thân họ bị đủ các loại bệnh, thân luôn bị đau nhức . Do có tính chất tái sinh hiện tại này mà chúng ta thấy dân số  của loài người và động vật ngày càng nhiều và đông hơn.

8/ Tính chất công bằng. Đã gieo nhân thì có ngày gặt quả. Khi đủ duyên thì cây sẽ có quả. Đất có đầy đủ dinh dưỡng, khí hậu tốt, có sự chăm sóc tốt thì cây sẽ có quả tốt. Quả không đến sớm thì đến muộn. Đã gieo nhân thì sẽ có quả. Không ai trốn được. Không thể có chuyện làm chuyện xấu trộm cắp, giết người rồi đi vào chùa, đền thờ bỏ tiền ra cầu xin thần thánh tha tội hay nhờ các vị thầy trong chùa tụng niệm cầu an, cầu siêu cho là sẽ hết tội, là sẽ được tái sanh được thân người có phú có quý. Đó là trái với luật nhân quả.

Chính vì nhân quả công bằng cho nên có thân người hay động vật sinh ra được phú quí, hoặc bị nghèo, bị bệnh tật, bị chết yểu, bị bỏ rơi, bị ganh ghét, bị đánh,… Do nhân quả công bằng nên mới có sự tái sanh luân hồi,  để con người hoặc các loài động vật trả nhân quả kiếp trước. Chứ không phải chết là hết, chết là rủ sạch tất cả, đó là thuyết không công bằng, thuyết này chỉ làm cho con người bất chấp mọi chuyện xấu, chạy theo dục vọng bản thân làm đủ chuyện xấu ác rồi nhờ các vị tu sĩ trong tôn giáo rửa tội, tha tội thì điều đó không thể xảy ra. Đã gieo nhân thì phải gặp quả. 

Do công bằng, do nhân quả là vô thường là có thể chuyển hóa được nên con người tự thay đổi,  tự chuyển hóa chính mình tiến đến sống thiện, nghĩ, nói và làm điều thiện, không nghĩ, nói hay làm điều ác nữa thì cuộc sống của người đó sẽ dần dần thay đổi thành tốt. Đúng như lời Đức Phật nói: “ Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, ta không thể thay các con đi được” Dù đã trở thành Phật có bao nhiêu quyền năng nhưng Đức Phật vẫn sống trong môi trường nhân quả, vẫn bị chịu nhân quả tác động, không thể thay con người gánh tội hay tha tội hay giúp cho người khác không bị quả ác đến thăm được. 

Người hiểu được nhân quả sẽ không lạc lối, không bị các thuyết phi nhân quả lừa gạt, họ luôn sáng suốt, tin vào chính mình, tin vào chỉ chính mình mới có thể tự chuyển đổi cuộc đời của mình, chớ không có bất kỳ ai có thể giúp mình dù Thần Thánh nào, Trời Phật nào cũng không thể. 


290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như...