41-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT
PHÁP TẬP 1: SỰ TU TẬP CỦA ÐẠO PHẬT HIỆN
GIỜ/ 3
Ở đây quí vị phải hiểu câu nói này: đau là phải
chịu đau, chết là phải chịu chết, chứ không thể nào làm chủ được nó. Chỉ chẳng
mê muội trước nó là đủ, mê muội trước nó có nghĩa là sợ hãi, là buồn khổ,
v.v... Ý của Tổ nói đứng trước các pháp ác tâm không hề dao động là đủ (chẳng
mê muội). Tôi xin lập lại câu nói này để cho quí vị dễ hiểu hơn. Chẳng muội
nhân quả nghĩa là quí vị chẳng sợ hãi trước cơn đau bịnh, trước cái chết, trước
cái tai nạn khổ sở là đủ, nghĩa là đừng sợ hãi các ác pháp vì quí vị thấy nó là
huyễn giả, không thật, là không. Mọi sự vật mọi hoàn cảnh xảy ra đều là huyễn
giả không thật có. Do hiểu biết như vậy quí vị sẽ không sợ hãi. Vì thế Nhị Tổ Pháp
Loa bịnh đau rên hừ hừ mà không làm chủ được cái đau, nên khi Tổ Huyền Quang hỏi,
ông trả lời theo kiểu Tổ Bách Trượng: gió thổi qua khe trúc. Tổ Bách Trượng mượn
thuyết định mệnh để chứng minh Thiền Tông không làm chủ nhân quả. Câu chuyện
Bách Trượng giả hồ, chúng tôi xin lưu ý quí vị, tổ Bách Trượng mượn thuyết định
mệnh chứ không phải là thuyết nhân quả. Còn Ðạo Phật thì chuyển nhân quả và làm
chủ nhân quả nên nó không là số mệnh, định mệnh được. Ví dụ: Cùng hai đứa bé nhức
răng ôm khóc, một đứa con nhà giàu, một đứa con nhà nghèo. Ðứa bé con nhà giàu
được cha mẹ đưa đến nha sĩ chữa trị hoặc nhổ chiếc răng hư, đứa này không còn
đau nhức chạy chơi vui cười. Còn đứa bé con nhà nghèo, không có tiền đi nha sĩ
nên phải chịu đau nhức rên khóc mãi suốt ngày này sang ngày khác. Kính thưa quí
vị người giàu có là do phước báo hữu lậu, biết bố thí, cúng dường đúng pháp nên
chuyển nghiệp nhân quả được huống là chúng ta tu pháp môn giải thoát vô lậu thì
phước báo vô lậu không thể nghĩ lường, như muốn chết hồi nào thì chết muốn sống
hồi nào thì sống, không có luật định mệnh hay luật nhân quả nào cấm cản được.
Kính thưa quí vị, xin quí vị lưu ý chỗ này: Tổ Bách Trượng dùng thuyết định mệnh
còn qua câu chuyện chúng tôi vừa kể về hai đứa bé đău răng là thuyết nhân quả, mà
thuyết nhân quả thì làm chủ được vì nó di chuyển và thay đổi được; còn thuyết định
mệnh thì không thay đổi được vì nó cố định. Cho nên dù có làm Phật thì cũng
không làm chủ được cái nhân quả. Như vậy thì quí vị đã phân biệt được luật nhân
quả và luật định mệnh phải không? Hai thuyết này khác nhau chứ không giống
nhau, nó chỉ giống nhau ở hành động nhân quả thiện ác mà thôi. Có sự cố định đó
là thuyết định mệnh, còn có sự thay đổi thì đó là thuyết nhân quả. Ví dụ: Ðức
Phật, ông Xá Lợi Phất, ông La Hầu La tự tại nhập niết bàn, v.v... Bởi vậy người
tu theo Ðạo Phật đến Tứ Thiền xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì không còn
nghiệp đau, nghiệp chết, tác dụng được vì thọ đã bị triệt tiêu trong định Tứ
Thiền. Như vậy mới gọi là làm chủ sanh tử. Làm chủ sanh tử là làm chủ nghiệp;
làm chủ nghiệp là xả lạc, xả khổ xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm
thanh tịnh là xả thọ; xả thọ tức là đoạn ái; đoạn ái tức là chấm dứt sự đau khổ.
Còn chấm dứt sự tái sanh luân hồi thì phải thực hiện lậu tận trí. Như trong kinh
Thập Nhị Nhân Duyên dạy: vì có thọ mới có ái, cho nên khi thọ diệt thì ái phải
đoạn tận. Ờ đây quí vị đã hiểu rõ về Thập Nhị Nhân Duyên. Kính thưa quí vị, đến
đây quí vị biết tứ thiền là một pháp môn quan trọng của Ðạo Phật trong sự làm
chủ sự sống chết. Phật dạy 37 phẩm trợ đạo đều giúp cho pháp môn này để cho quí
vị thành tựu giải thoát cá nhân của quí vị ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ và còn
ra khỏi thân đau khổ này. Tôi xin quí vị lưu ý thêm chỗ này, thọ là then chốt của
nghiệp ái. Chúng ta tự hỏi nghiệp để làm gì? Nghiệp để cho ai? Xin trả lời để
cho thọ. Ái để làm gì? Ái để cho ai? Xin trả lời để cho thọ. Vậy chúng ta tu
hành dùng Tứ Thiền xả thọ thì nghiệp và ái còn tác dụng vào đâu, cho nên goị là
diệt nghiệp đoạn ái. Ðoạn ái là làm chủ thân tâm; diệt nghiệp là chấm dứt tái
sanh luân hồi. Con đường của Ðạo Phật dạy chúng ta tu hành quá rõ ràng không giống
như Thiền Ðông độ và kinh Ðại Thừa. Vả lại chúng ta biết muốn nhập Tứ Thiền thì
phải tịnh chỉ hơi thở. Hơi thở là mạng sống của con người; khi nhập định Tứ Thiền
tịnh chỉ được hơi thở tức là làm chủ được mạng sống của mình, một loại thiền định
làm chủ sự sống chết rất rõ ràng và cụ thể mà trong thế gian này chúng ta không
ngờ lại có một pháp mầu nhiệm như vậy. Kính thưa quí vị, tôi xin chép ra đây một
đoạn trong Thiền Luận của Ðại Ðức Suzuki: Thấy tâm không thật thì tâm dứt, quên
trâu, tranh 7: vong ngưu tồn nhân, thấy người không thật thì người quên nốt,
tranh 8: nhân ngưu câu vong. Biết cái tâm không tâm, ấy là hiểu suốt Ðạo Phật.
(Thiền luận tập thượng trang 616 ). Nghe qua những lời dạy này quí vị có biết
cách tu hay không? Hay chỉ cần thấy tâm không thật người không thật là vọng tưởng
hết, là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Nói được, không làm được. Tri hành không hợp
nhất. Người và trâu đều quên thì từ lòng đất dũng mãnh vọt lên mặt trời tuệ, tượng
trưng bằng cái vòng tròn viên giác, tranh 8, đó là tâm vô tâm. (Thiền luận, tập
thượng, trang 616). Kính thưa quí vị Phật tử, đến tranh 8 Thập Mục Ngưu Ðồ xác
định người trâu đều quên mất mới cho đó là tâm vô tâm. Còn kinh Ðại Thừa và Thiền
Ðông Ðộ trâu mất mà thằng chăn trâu còn gọi là vô phân biệt, qua sông quên mặc
quần áo, sai lấy cái thùng mang cái rổ, chỗ nay không phải là vô tâm. Ở chỗ Thập
Mục Ngưu Ðồ tranh 8 mới là chỗ tâm vô tâm. Chỗ này mới gọi là năng sở không
còn. Thầy chúng tôi dạy năng sở không còn là vô tâm hay là tranh số 8. Thập Mục
Ngưu Ðồ cho chỗ vô tâm là chưa viên mãn nên bảo "vô tâm còn cách một lớp
rào", vì thế phải tiếp tục tu hành tiến tới tranh thứ 9, tranh thứ 10.
Kính thưa quí vị, cái vòng tròn tượng trưng cho trí tuệ từ trong lòng đất người
trâu đều quên sanh ra. Thập Mục Ngưu Ðồ Thiền Tông không xác định được người
trâu đều quên ở mức độ nào mà trí tuệ phát sáng. Hôn trầm, thùy miên, vô ký,
ngoan không cũng có trạng thái người trâu đều quên, rồi cũng từ trong đó có trí
tuệ phát sáng, cũng ngộ những công án, cũng thông suốt các lý luận của Thiền
Tông và các kinh Ðại Thừa. Nhưng trí tuệ phát sáng này tôi gọi là tưởng tuệ. Tưởng
tuệ là do từ trong định tưởng phát ra, tùy theo ở mức độ nhập định tưởng lâu
mau, sâu cạn và do đó có sự hiểu biết thấp cao. Tưởng tuệ là trí tưởng tượng
suy nghĩ nghĩa lý trong các kinh sách Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ chứ không có
kinh nghiệm tu hành giải thoát như kinh Nguyên Thủy. Câu chẳng nghĩ thiện chẳng
nghĩ ác, độ hết chúng sanh thành Phật, thấy tâm không thật thì tâm dứt, thấy
người không thật thì người quên. Những câu nói này là tưởng tuệ, không tu hành
gì được. Bằng chứng là kinh sách thì nhiều mà người tu chẳng ra gì, nghe thì hữu
lý mà thực hành thì không vô. Bởi vậy có hàng trăm hàng ngàn người theo tu với
Mã Tỗ mà người ngộ đạo, ngộ được tâm ngồi đạo tràng tu hành chỉ có 84 người
nhưng đến khi thành tưụ chỉ còn có 2, 3 người, tức là những người nhập được định,
trong đó có thiền Sư Dược Sơn. Phải nói Thiền Ðông Ðộ có nhiều đạo tràng chỉ có
đạo tràng của Mã Tỗ là số người tu đông nhất, nhập định được thì cũng không được
mấy người, nhưng lại là định tưởng, định không làm chủ được sự sống chết. Loại
thiền định này nhập để mà chơi cũng như Ðức Phật nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ
để mà biết Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ mà thôi thì còn có nghĩa lý gì cho cuộc đời
tu hành. Kính thưa quí vị, giai đoạn đầu thiền người ngộ thì đông mà tu thành tựu
thì quá ít, không giống như câu nói kiến tánh thành Phật. Biết bao nhiêu người
đã thấy chỗ không nghĩ thiện không nghĩ ác mà có làm Phật được đâu? Mà có thành
Phật chỗ nào? Do sự tu không được, các Thiền Sư phải thay đổi cách khai ngộ và
cách tu, bắt đầu họ dùng các công án rắc rối hơn, hoặc đánh hoặc la hoặc hét để
hạn chế người ngộ. Ðó là giai đoạn giữa thiền. Bắt đầu từ các đệ tử của Lục tổ
Huệ Năng đến Lâm Tế thì cách tu tập họ cũng còn giữ cách tu cũ, nhưng có thêm
nhiều thứ thiền như Lục diệu môn, sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Thiền hơi thở
phong, khí, suyễn, tức và pháp môn Tịnh Ðộ. Thiền Lục Diệu Pháp Môn do Trí Khải
đại sư sản sanh, thiền hơi thở phong, khí, suyễn, tức do một vị thiền sư mà tôi
không nhớ tên. Pháp môn Tịnh Ðộ do thiền sư Huệ Viễn lập Liên Trì Thư Xã và sớ
giải kinh Tịnh Ðộ, thiền sư Diên Thọ Vĩnh Minh tán thán pháp môn này. Khi con
đường thiền Ðông Ðộ tu không có kết quả người ta mới sinh ra nhiều pháp môn như
vậy. Nhưng mỗi pháp môn được sinh ra chỉ có sống một thời với người cha đẻ của
nó rồi cũng chết yểu, vì thiếu kinh nghiệm, chỉ do trí tưởng tượng tạo ra nên
tu không có kết quả. Pháp môn Tịnh độ còn sống đến ngày nay là nhờ một nhóm thiền
sư khéo léo lấy sự mê tín trong dân gian làm chổ nương tựa như: cầu an, cầu
siêu, cúng sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu, v.v... Vì người nào khi niệm Phật
có được nhất tâm thì khi chết được sanh về Cực lạc. Còn người nào sống tu tập
chưa đạt được nhất tâm, sau khi chết cũng được sanh về Cực lạc rồi tu tập tiếp.
Do sự tiện lợi và dễ dàng dù niệm Phật ít hay nhiều đều được sanh về nước Cực lạc.
Người ta đặt ra 48 lời nguyện của Ðức Phật Di Ðà để mọi người dựa vào đó mà
nuôi hy vọng như trong sám Từ Vân có câu: Thiện nam tín nữ các người Chí thành
tưởng Phật niệm mười tiếng ra Ta không rước ở nước Ta Thệ không làm Phật chắc
là không sai. Nhưng đây chỉ là một thứ hy vọng ảo tưởng mà thôi. Kính thưa quí
vị Phật tử, bây giờ chúng tôi đem so sánh kinh Nguyên Thủy, kinh Ðại Thừa, thiền
Ðông Ðộ với Thập Mục Ngưu Ðồ. Tôi xin nhắc lại kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ
chấp nhận khi hết vọng tưởng là thành Phật; độ hết chúng sanh là thành Phật; chẳng
nghĩ thiện nghĩ ác bản lai diện mục hiện tiền hay kiến tánh là thành Phật. Chỗ
này kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ chỉ tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ ở tranh số
7: ngưu vong tồn nhân. Thầy chúng tôi dạy trâu mất người chăn phải còn. Chổ này
Thầy chúng tôi cũng chỉ tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ tranh 7, với kinh Ðại Thừa,
với Thiền Ðông Ðộ, nhưng không thể tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ tranh 8 được.
Kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ tu đến chổ này được xem là thành Phật. Phật là Ðại
giác, giác là trí tuệ. Ngược lại Thập Mục Ngưu Ðồ cho chỗ tu này chưa xong nên
phải tiếp tục tu tới tranh 8: nhơn ngưu câu vong, người trâu đều mất, người
trâu đều quên. Kinh Ðại Thừa, Thiền Ðông Ðộ thì không có nhưng kinh Nguyên Thủy
thì tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ ở tranh 8, nhưng lại khác, khi người trâu đều
quên thì mất tiêu rồi phát ra trí tuệ, còn Kinh Nguyên Thủy thì ở trong trạng
thái hỷ lạc do định Nhị Thiền sanh như tôi đã nói ở trên. Ở Thập Mục Ngưu Ðồ,
khi trí tuệ hiện ra thì hành giả thấy mình và vạn hữu là một. Nên thiền sư Thiền
Lão dạy: Thúy trúc huỳnh hoa phi ngoại vật Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân Dịch
: Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh ngoại Trăng trong mây bạc hiện toàn chân Thấy mọi
vật là mình. Mình là mọi vật là tranh số 9: phản bổn hoàn nguyên trong Thập Mục
Ngưu Ðồ. Tu đến chỗ này sau một năm nhập thất Thầy chúng tôi tuyên bố trước
Tăng Ni và Phật tử Thầy đã về đến nhà,Thập Mục Ngưu Ðồ tranh số 9: phản bổn
hoàn nguyên. Sau khi ra thất Thầy chúng tôi cho xây cất Thiền viện Trúc Lâm,
phát huy Thiền Tông Việt Nam để Tăng Ni và Phật tử có chỗ tu hành chân chính,
đó là Thầy chúng tôi đang ở tranh 10 Thập Mục Ngưu Ðồ, thỏng tay vào chợ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét