39-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT
PHÁP TẬP 1: SỰ TU TẬP CỦA ÐẠO PHẬT HIỆN
GIỜ/ 1
Kính thưa quí vị Phật tử, con đường tu theo Ðạo
Phật hiện giờ có muôn vạn nẽo, chọn sai pháp môn tu hành thì uổng phí một đời
không có kết quả. Theo sử 33 vị Tổ Sư Thiền Ấn Ðộ và Trung Hoa thì con đường
thiền này do từ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy. Qua câu chuyện niêm hoa trên
núi Linh Thứu, Ngài Ca Diếp mỉm cười thì chắc quí vị ai cũng biết rõ, tôi chẳng
cần thuật lại làm gì cho mất thì giờ. Ca Diếp tổ thứ nhất bên Ấn Ðộ truyền xuống
đến tổ thứ 28 là Bồ Ðề Ðạt Ma. Bồ Ðề Ðạt Ma sang Trung Hoa và làm tổ thứ nhất tại
đất nước này. Người Trung Hoa đắc thiền này đầu tiên là Thần Quang, sau này gọi
là nhị tổ Huệ Khả. Bồ Ðề Ðạt Ma truyền đạo thiền này cho Huệ Khả qua câu chuyện
an tâm. Tôi xin nhắc lại câu chuyện để quí vị thưởng thức. Thần Quang đến tìm Bồ
Ðề Ðạt Ma để mong cầu Pháp tu hành. Lúc bấy giờ Bồ Ðề Ðạt Ma đang ngồi nhìn
vách đá, nên Thần Quang đứng đợi chẳng dám động. Mãi đến hôm sau tuyết phủ lấp
gối Bồ Ðề Ðạt Ma mới quay ra hỏi: "Ngươi đến cầu gì mà phải khổ sở vất vả
quá vậy? Thần Quang đáp: - Con đến cầu pháp. - Ta có pháp gì để ngươi cầu? - Bạch
Hòa Thượng tâm con bất an. - Ngươi lấy tâm ra ta an cho. Thần Quang đứng, nhìn
quanh quất chẳng tìm thấy tâm đâu, liền bạch: - Bạch Hòa Thượng, tâm ở đâu làm
sao con lấy được. - Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó. Thần Quang bèn quì xuống
đãnh lễ tổ nhận pháp an tâm. Ngay câu nói mà liền hiểu thì gọi là đốn ngộ. Như
vậy Thần Quang đã ngộ pháp an tâm tức là ngộ Phật tánh còn gọi là kiến tánh.
Qua câu chuyện này quí vị có hiểu pháp an tâm không? Ðể tôi so sánh chỗ pháp an
tâm và kinh Nguyên Thủy thì quí vị thấy rõ ràng. Theo kinh Tứ Niệm Xứ, Phật đã
dạy: vô thường, khổ, không, vô ngã. Chỗ pháp an tâm của Bồ Ðề Ðạt Ma tương ưng
chỗ Phật dạy tâm vốn không. Khi Thần Quang nhìn lại để tìm kiếm tâm thì tâm
không thấy đâu, nhưng khi khởi niệm thì liền có tâm, không niệm thì không tâm.
Vậy khi không niệm tâm quí vị có an không? Vì không niệm thì còn chỗ nào gọi là
phiền não, bồ đề, thì còn chỗ nào gọi là tham, sân, si, ái, dục, thì còn chỗ
nào gọi là sanh tử. Cho nên Bồ Ðề Ðạt Ma gọi đó là an tâm. Vậy pháp môn an tâm
của Bồ Ðề Ðạt Ma có giống pháp môn chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, bản lại diện
mục hiện tiền của Lục tổ Huệ Năng không? Kính thưa quí vị Phật tử, khi tâm chẳng
nghĩ thiện nghĩ ác, thì tâm ở trong trạng thái không niệm. Tâm ở trong trạng
thái không niệm là tâm không. Tâm không là tâm không phiền não. Không phiền não
là tâm an ổn. Tâm an ổn là an tâm. Như vậy bây giờ quí vị đã hiểu rõ hai pháp
giống nhau không khác nhau phải không? Tôi xin kể lại câu chuyện "Bản lai
diện mục" để quí vị thưởng thức. Khi Huệ Minh đuổi theo Huệ Năng để dành y
bát lại. Lục tổ Huệ Năng biết chạy không thoát khỏi, nên bỏ y bát bên vệ đường
đứng đợi. Khi Huệ Minh đuổi kịp, Huệ Năng bình tĩnh bảo: - Người đến đây cầu
pháp hay cầu y bát? Nếu cầu y bát, thì y bát ở đây ngươi cứ lấy đi đi. Huệ Minh
cúi đầu đảnh lễ tác bạch: - Con đến cầu pháp chẳng cầu y. - Chẳng nghĩ thiện
nghĩ ác cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Huệ Minh? Huệ Minh đảnh lễ Tổ
nhận pháp bản lai diện mục rồi trở về. Kính thưa quí vị Phật tử, bây giờ chúng
ta đem hai pháp này so sánh với kinh Ðại Thừa, vì lúc nãy chúng ta đã đem so
sánh với kinh Nguyên Thủy rồi. Kinh Kim Cang Bát Nhã có câu "Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm" do câu kinh này mà Lục tổ Huệ năng đã kiến tánh. Nghĩa của
câu kinh này dạy đừng nên trụ tâm chỗ nào cả thì tâm kia hiện tiền. Xin thưa với
quí vị Phật tử, tâm của chúng ta thường trụ ở 3 chỗ: niệm thiện, niệm ác và
không niệm. Kinh này dạy chúng ta ở chỗ không, không trụ tức là không niệm,
không niệm tức là tâm vốn không, tâm vốn không tức là an tâm, an tâm tức là chẳng
nghĩ thiện nghĩ ác, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác tức là bản lai diện mục, bản lai
diện mục tức là Phật tánh. Chỗ vô trụ này còn nhiều tên khác nhau mà chúng ta từng
gặp trong các kinh sách Ðại Thừa và kinh sách Thiền Ðông Ðộ. Bây giờ quí vị đã
hiểu kinh và lời của Tổ đều khế hợp nhau, nên người đời sau gọi là Thiền Giáo đồng
hành. Thiền Ðông Ðộ chia làm 3 giai đoạn, giai đoạn đầu thiền, giai đoại giữa
thiền, giai đoạn cuối thiền. 1. Từ pháp môn An tâm đến pháp môn Bản lai diện mục
là giai đoạn đầu của Thiền Ðông Ðộ. 2. Từ số đệ tử của Lục tổ Huệ Năng đến Lâm
Tế là giai đoạn giữa thiền. 3. Từ số đệ tử của Lâm Tế đến Hư Vân Hòa Thượng và
La Hỏa Thiền sư là giai đoạn cuối thiền. Giai đoạn đầu thiền sư khai ngộ cho đệ
tử dễ hiểu, dễ ngộ, cho nên lúc bấy giờ người theo tu rất đông, nhất là thời kỳ
Lục tổ Huệ Năng, người nghe qua liền ngộ, chẳng cần phải moi đầu nặn óc tìm kiếm.
Chúng ta phải nói thiền Ðông Ðộ cực thịnh nhất ở giai đoạn này như hoa thiền đến
thời kỳ rộ nở. Khi nhận ra pháp này Thiền Ðông Ðộ gọi là ngộ, ngộ xong rồi phải
bảo nhậm còn gọi là tiệm tu, giữ tâm hay chúng sanh độ Phật. Vì vậy mà có từ ngữ
đốn ngộ rồi tiệm tu. Tiệm tu có nghĩa là tu lần lần. Mục đích của thiền này là
nhắm vào Phật tánh. Vì có ngộ được Phật tánh mới thành Phật nên gọi là kiến
tánh thành Phật. Ngộ Phật tánh tức là nhận ra pháp môn tu hành, nhận ra pháp
môn tu hành tức là nhận ra pháp môn chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Chỗ chẳng nghĩ
thiện nghĩ ác là chỗ chẳng có pháp môn, nên thiền này còn gọi là chẳng có pháp
môn nào, chỗ chẳng có pháp môn nào biết lấy cái gì tu hành. Do đó kinh Kim Cang
dạy cách tu Bồ Tát độ chúng sanh mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì
thành Phật. Bát Nhã Tâm kinh dạy: Ða thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không; Kinh
Lăng Nghiêm dạy: Phản văn, văn tự tánh. Kinh Viên Giác dạy: Tri huyễn tức ly,
ly huyễn tức giác. Các tổ sư thiền dạy: chăn trâu, gọi Ông chủ, biết vọng liền
buông. Tham thọai đầu, tham công án, khởi nghi tình, v.v... Thầy chúng tôi giải
thích cách tu của kinh Kim Cang dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Thiền sư Huệ
Hải cũng dạy như vậy. Thiền sư Dược Sơn dạy: ngàn Thánh cũng chẳng làm nghĩa là
cái biết không cho mất, nhờ cái biết trong cái không niệm thiện niệm ác lâu
ngày thuần thục nên gọi là da mỏng da dày đều rớt sạch. Giữ tâm chẳng niệm thiện
niệm ác còn gọi là chăn trâu. Vọng tưởng hết gọi là hết chăn trâu. Hết chăn
trâu là thành tựu cũng như kinh Kim Cang dạy độ hết chúng sanh là thành Phật.
Kính thưa quí vị việc làm này không phải dễ cho nên tổ sư Hoàng Bá đã dạy:
Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường. Hoặc: Chẳng phải một phen xương lạnh buốt
Hoa Mai đâu há dễ ngửi mùi. Cho nên chăn trâu và độ chúng sanh mãi không hết.
Thiền sư mới nghĩ ra cách biết vọng liền buông. Thầy chúng tôi triển khai diệu
pháp này để hồi phục Thiền Ðông Ðộ và chấn hưng Thiền Tông Việt Nam. Trong thời
gian tôi theo học tại Thiền viện Chơn Không, Thầy chúng tôi dùng phép an tâm
khai ngộ chúng tôi và dạy chúng tôi cách tu biết vọng liền buông. Kính thưa quí
vị, kinh Ðaị thừa và thiền Ðông độ dạy cách tu quá đơn giản. Nhưng kinh Ðaị Thừa
và thiền Ðông Ðộ không ngờ khi tâm hết vọng tưởng thì tâm không bao giờ chịu đứng
yên một chỗ chẳng niệm thiện niệm ác mà lại lặng xuống rơi vào trạng thái mất
tiêu, nên trong Thập mục ngưu đồ, tranh thứ 8 người trâu đều mất, giống như ở
trạng thái hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không đều có trạng thái người trâu
đều mất tiêu. Ở chỗ trạng thái hôn trầm, thuỳ miên thì các thiền sư điều biết mặt
nó do đó các Ngài lại một phen khổ sở không biết làm cách nào phá được nó. Qua
những trang tự thuật của các Ngài tu hành, tôi biết các Ngài không có cách phá.
Còn ở trạng thái vô ký, ngoan không thì trong phần tự thuật các Ngài không hề
nói đến. Qua kinh nghiệm bản thân của tôi thì các pháp tu từ pháp độ chúng
sanh, chăn trâu, gọi ông chủ và biết vọng liền buông đều không đủ lực dừng niệm
thiện niệm ác thì làm sao phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, nên
các Ngài phải lấy dùi đóng vào chân, trèo lên cây ngồi thiền, lấy gốc cây tròn
làm gối kê đầu. Những việc làm này chỉ là một trò đùa với hôn trầm, thùy miên;
không thể hàng phục nó được. Kính thưa quí vị, tôi xin lưu ý quí vị ở chỗ này:
Khi chăn trâu, độ chúng sanh, biết vọng liền buông, các pháp này chỉ dừng được
niệm thiện niệm ác thô, còn niệm thiện niệm ác vi tế thì không thể diệt được
nó. Nên tôi bảo rằng các pháp môn này không đủ lực. Vì thế quí vị tu hành suốt
một thời gian dài 24 năm nay mà chưa hết niệm vi tế. Khi gặp nghịch cảnh quí vị
nén được tâm nhưng không nén được loạn tưởng. Do đó mà tôi bảo rằng quí vị
không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký và loạn tưởng. Ðể phá trạng thái này,
các thiền sư dùng pháp tác ý thường gọi ông chủ. Gọi "Ông Chủ" là
pháp môn tác ý. Pháp môn tác ý có nhiều pháp như: gọi ông chủ, sổ tức, niệm Phật,
đề khởi thoại đầu, đề khởi nghi tình, v.v ... Kính thưa quí vị Phật tử, muốn
chiến thắng được loạn tưởng, hôn trầm, thùy miên thì chỉ có giới luật của Phật
mới hàng phục được nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét