219-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT
PHÁP TẬP 5: HƯỚNG VỀ CHƠN NHƯ/ 2
Kinh điển đã phát hành rộng rãi, dòng chảy Bát
Nhã kinh điển Đại Thừa đã xuôi chảy khắp hang cùng ngõ hẻm, để phổ hóa tế độ
chúng sanh. Em trả lời: Bạch Thầy, đó là sự lớn mạnh về hình tướng, đồng thời
cũng có lợi ích về tâm linh nhân sanh đương đại, nhưng bạch Thầy sự lớn mạnh về
Phật Giáo, chùa to, Phật lớn, thì phải đồng nghĩa với sự lớn mạnh về niềm tin,
phải có thật là nhiều người đắc đạo chớ, hay rằng thế gian nhân loại hôm nay chỉ
có pháp học mà mất đi pháp hành, và người Phật tử phải bươn chải lao cực để đem
tiền đi cất chùa cho lớn, làm điểm tham quan du lịch, tịnh xá mọc lên tháp cao
vút để chi vậy, mồ hôi nước mắt tiền của ấy phải là sự cứu rỗi cho nhân sinh chứ.
Xã hội ta, đất nước ta còn rất nhiều người thất nghiệp, nghèo đói. Và Phật Giáo
hơn ai hết vì sự buông xả hoàn toàn, vì sự thanh bần vô ngã lợi tha, hãy đem
tình yêu thương mà cứu lấy họ, và khi họ đã an cư lạc nghiệp, thì chính họ quay
về trú nương trong lòng Phật pháp. Nhất định Giáo trình tu tập của những bậc chứng
ngộ phải được lưu xuất rộng rãi, cái thiện phải lấn cái ác, phải biết nói không
với cái ác. Có như vậy thì Phật Giáo mới thật sự sống trong lòng cuộc đời, mới
gọi là sự vinh quang của Phật giáo, chứ không phải Khất sĩ là Nam Tông, Tiểu Thừa
như Thầy nói và Thầy lại chê Tu Viện Chơn Như là tu theo Tiểu Thừa chấp giới tướng.
Bạch Thầy! Mời Thầy tu theo Tiểu Thừa xem. Thầy nghĩ thế nào một vị tu Tiểu Thừa
nhập định suốt ba mươi ngày, hay nhiều hơn nữa, các hành trong thân đều ngưng
hoạt động và khi xả định các hành lại hoạt động bình thường đó là Tiểu hay Đại?
Và thưa Thầy niềm vui đó là niềm vui Phật Giáo Việt Nam. Đó là câu chuyện ở Tu
Viện Chân Không. Trang sẽ đàm luận tiếp cho anh nghe, em có người bạn tu pháp
môn Tịnh Độ gần ba mươi năm, những khi gặp gỡ bạn bè, bạn em thường đem lời đốn
ngộ thiền sinh của vị Tổ này, học giả kia mà biện thuyết và rất tích cực đem
chuyện bà già trầu này niệm Phật nhất tâm bất loạn, bà già trầu kia được Phật
rước vãng sanh, nhưng có người nói anh tu mà còn đi ở đậu người khác, không xả
bỏ kiến hoặc ấy đi thì làm sao đến Tây Phương đặng, bạn ta nổi trận lôi đình.
Anh biết chăng nói thì thao thao mà hành thì không có kết quả, phải chăng trên
cuộc đời quá ít ỏi Minh Sư. Hàng học giả Phật Giáo chúng ta ngày nay thật sự là
con cháu của Tế Điên Hòa Thượng quá nhiều, trách sao Sư cô không đeo vòng nguyệt
xuyến, thi đấu cầu lông, thẩm mỹ thể hình, chạy Honda thật là duyên dáng, tiếp
đãi khách thập phương rất là nồng hậu, tịnh xá, chùa, am sang trọng gần giống
như chốn cung đình, có vài nơi (ít thôi) thay vì giờ tịnh chỉ ngôn ngữ được thế
vào bàn luận bóng đá, thế mà vẫn có thuốc ba số hút, 7up lon uống, có máy điều
hòa, ngủ nệm êm. Quí Phật tử ơi! Quí vị thõng tay vào chợ vừa vừa thôi chứ,
cúng dường kiểu ấy chỉ có tăng tàn mà thôi. Lợi ích gì cho sự tồn sinh của Phật
Giáo? Tứ chúng thanh tịnh thì Phật Giáo trang nghiêm. Phật Giáo trang nghiêm là
cõi sống thiên đàng tại thế. Cư sĩ thuần thành, chánh kiến biết cúng dường đúng
giới pháp, là người có công lớn lao trong cuộc chấn hưng Phật Giáo, công đức vô
lượng vô biên; ngược lại thì tội không nhỏ, đó là con dao hai lưỡi trên con đường
tu học. Ước mong sao cho huynh đệ hữu duyên về với cội nguồn Phật Giáo đương đại,
đó là Tu Viện Chơn Như, ở đây không có chùa to, đẹp, huy hoàng tráng lệ hay vay
mượn nét cổ kính từ bên ngoài. Mà sự trang lặng vô cùng, với thiền đường, chánh
điện bằng cây, thiếc, tranh, lá đơn sơ, bên những cốc am tranh vây quanh, ẩn
núp bên hàng cây cổ thụ, lồng lộng tiếng chim kêu. Tu Viện nằm giữa đồng sâu
thanh vắng, độc cư, thanh nhã vô cùng. Đó là nét hoành tráng độc đáo của Tu Viện
Chơn Như. Nhưng đặc thù hơn nữa là nét tinh hoa giải thoát của Phật Giáo được
cô đọng nơi đây. Hành giả hữu duyên sẽ được Thầy Viện Chủ trao tặng cho kho
tàng Phật pháp và sẵn sàng làm người dẫn lộ đưa ta về đến Niết Bàn thật sự.
Hành giả là người phải gian khổ chịu khó thực hành các con đường mà ngày xưa
Thái tử Sĩ Đạt Ta dám cả gan ra đi. Từ những suy tư trên, Trang có cảm nghĩ như
thế này: Người Phật tử chân chính, phải có tuệ quán đối với giáo pháp nào không
đúng với chân lý mà Như Lai đã nói. Giáo Pháp nào dạy mình sống có trí tuệ nhân
bản, hòa nhập với xã hội mà mình không bị biến mất mình, mình biết mình đang mê
đắm, biết chỗ đứng của mình, áp dụng lý nhân quả trong ăn, nói, làm, biết hành
thiền bằng chánh pháp của Như Lai. Điều tối ưu quan trọng, mọi chúng ta đều nhờ
Minh Sư đắc đạo hướng dẫn, thì một trăm phần trăm sẽ có lợi cho thân tâm, gia
đình, xã hội, thế giới, nhất là được an lạc hạnh phúc trong cuộc đời. Nhất định
không cúng dường phi pháp, vì những ông tăng không giới luật, sống buông lung,
lợi dưỡng là những người không phải thiện tri thức, những ông ấy không giải khổ
cho mình được. Tổ Minh Đăng Quang gọi đó là cái thây ma nơi chánh điện. Cảnh giới
Niết Bàn tịnh lạc là của chung tất cả. Chư Sư đắc quả thanh tịnh là nơi qui ngưỡng
của toàn thể chúng sanh, là nơi để Chư Sư sáng tỏa gương hạnh độ đời, nhắc nhở
nhau về kinh nghiệm thành tựu vi diệu, về phương pháp phòng hộ sáu căn. Người
Cư sĩ đến đó là có liền những thành quả tu học, pháp hành phủ kín không gian và
thời gian. Có như vậy thì Phật Giáo sẽ góp phần giúp ích cho nhân loại. Trang ước
mong quí vị có trách nhiệm với Phật, có bổn phận lo cho Tăng Ni, ngay bây giờ
phải gạn lọc lại Kinh sách, phát hiện tìm tòi những giáo trình của các nhà chứng
đạo. Giáo trình chân lý vốn không tư vị ai, dù có đánh trúng mình đi nữa cũng
may mắn cho mình, mạnh dạn xin phép ấn hành; đó mới là hy sinh đời mình cho Đạo
Pháp, chúng sinh; ngược lại là có tội. Hàng ngũ Tăng chúng phải tổ chức nội
quy, sống y thời khắc biểu Niết Bàn giới luật chân lý, có hướng đi hành trì rõ
ràng để đừng là cư sĩ trọc đầu. Biểu trưng cho hàng Phật tử, Trang nói lên tiếng
lòng bức xúc của thời Phật Giáo đương đại. Chẳng thà nói thẳng còn hơn nói dông
dài, ấm ớ, nói lén, tự lừa dối mình, làm mất tính tự chủ, dân chủ, nghị lực,
trí tuệ của mình, a dua với lẽ ác, tham, sân, si, mạn, nghi (ngũ triền cái), xô
đẩy Chư Sư xuống hầm tối địa ngục bằng hành vi cúng dường mê tín. Không quy ngưỡng
với bậc Chân Sư mà tín những ông sư danh lợi. Nói kiến nghị để bênh vực cho Chư
Sư đang bị con sâu làm sầu nồi canh, bênh vực cho cái đúng, dám hy sinh thân mạng
mình cho Phật Pháp để người đắc đạo, để Phật Giáo là hơi thở của toàn nhân loại.
Tâm tư nguyện vọng ấy không có tội. Đừng nên đem câu nói phạm Tăng Phật bất cứu
ra để đè người. Họ xí gạt mình để họ làm bậy. Nói thẳng để người Phật tử biết
cúng dường có phước báo thật sự, để Chư Sư bước lên mà không xuống lớp cư sĩ. Để
cư sĩ đẹp nết na, không một mình đến cốc chư Tăng, õng ẹo, gợi khêu phạm giới.
Cổng chùa là nơi thăng hóa đạo lực, nhân cách con người. Thế giới sống trong
ánh sáng từ bi của Đức Phật là sinh khí cho cuộc đời, thì nhân loại trên hành
tinh không có chiến tranh sầu ly tán, chết chóc thảm thương, nhân loại sống lục
hòa làm gì có thất nghiệp. Biết đánh giá cao, nhận thức đúng về luật nhân quả
thì đâu có ỷ mạnh hiếp yếu, vì quyền lợi nước mình làm tang tóc cho nước khác,
đó là cái thiện vắng mặt, không có Jesus trong trái tim, quí vị yêu mạng sống
mình, dòng họ nhà mình, mà vô cùng tàn ác với hàng triệu triệu sinh linh, nhân
quả đó phải thọ lấy. Thế giới đang xảy ra những cuộc chiến bi thương oan gia trả
quả, và sẽ bất tận khi cái ác đè bẹp công lý, cái bất thiện dành quyền phủ quyết,
giả trá tham, sân, si đại diện cho nhân quyền thì hành tinh này đều nằm trong
điểm nhắm của tên lửa phi nhân. Hôm nay tôi được nghe Trang nói, như một tín đồ
ngoan đạo nghe thiền giả giảng đạo. Tôi thấy ở Trang sự tinh khiết của tâm hồn
Phật Giáo. Ở Trang tôi thấy không có sự phỉ báng Tam Bảo, mà dám sống chết vì
Tam Bảo, coi chừng những vị không hiểu được Trang, họ sẽ ghét Trang lắm đó! Em
nghĩ rằng với lòng tốt, kính yêu Tam Bảo em không sợ gì cả. Vì thế mà trong những
giây phút tập hành thiền sơ cơ, đã nói sơ cơ thì phải còn vọng tưởng, hôn trầm,
em tự nghĩ khi vọng tưởng, em lấy dây cột vọng tưởng đó lại, đối thoại với nó,
khi hai bên đã sáng tỏ chân tướng của nhau và vọng tưởng tự cởi trói biến mất
không bao giờ trở lại nữa. Thiền là đối diện trừng thẳng xả ly vọng tưởng, mỗi
vọng tưởng đều được phân lọc kỹ càng, xử lý nghiêm túc, thì vọng tưởng sẽ trở
nên trú định an lạc (Tư tưởng này là đề tài em sẽ trình lại với Thầy em, nói
vui với anh chơi, đừng coi đó là đề án á!). -Mỗi ngày Cô hành thiền bao nhiêu
thời? Em lấy căn bản Thầy dạy theo sơ cơ tùy sức mình, em phân làm hai thời,
sáng thật sớm và chiều mỗi thời ba mươi phút, tận dụng thời gian trong ngày:
quán ly tham, sân, si, ... Tôi biết tôi đang thở và trú định biết mình trong
sinh hoạt đời sống. Thích sống yên tịnh một mình để tận hưởng niềm thanh thản
vô biên. Tâm em thường lưu xuất hình ảnh mình và rất nhiều bạn bè quỳ bên Thầy
trước chánh điện, được Thầy chỉ tỉ mỉ bí pháp của Đức Phật ngày xưa. Đi thẳng bằng
phương pháp dứt ly sinh tử là con đường tối ưu chắc chắn nhất. Khi đạo tràng mầu
nhiệm là phước lực của nhân loại. Khi đạo lực của mỗi người được vững mạnh, đó
là kết quả của niềm hạnh phúc giải thoát vô biên. Và khi đã hiểu điều này, mình
cảm thấy tiếc thương cho những trang lứa, sống độc thân, ăn chay, hành thiện mà
không có chìa khóa mở cửa giải thoát, đòi quyền sinh tử làm chủ nhân quả. Thầy
em nói: Bấy lâu nay nhân quả nắm quyền làm chủ sanh tử. Một hôm nọ gặp một nữ
cư sĩ áo lam quần đen em thiện cảm hỏi: "Gặp chị biết người đồng chí hướng.
Thưa chị có lẽ chị hiểu đạo đã lâu, chắc là trường chay, độc thân?" -Dạ, sống
độc thân, chay trường, làm công quả cho nhà thuốc. -Với cách nghĩ và chấp nhận
sống và làm công quả như vậy, chị có thấy uổng không? -Làm gì mà uổng? Uổng cái
gì? Giận dỗi mà đi. Biết chị hiểu khác đi, em chạy theo làm lành giải thích rõ,
chị ngỏ ý kết bạn, sau đó chúng em rất tâm đắc với nhau. Đi tìm đạo, học tập có
khi vài mươi năm, do không có duyên gặp Minh Sư, cuộc đi tầm đạo có khi là việc
mò trăng đáy nước. Con thuyền bát nhã vượt dòng sanh tử rất gian nan, người trí
giả khao khát tìm nguồn, chứ có chi mà tự mãn. Chị ấy nói không uổng là chị ấy
nghĩ rằng: với chừng ấy công việc là quá mãn nguyện rồi. Chứ chị ấy đâu biết rằng
dòng đời mênh mang ấy, thuyền tứ đại chị đã bao lần lại qua, trồi hụp, khổ đau.
Với cái nhân duyên rảnh rang ấy mà không được Chơn Sư dìu dắt pháp ly dục, ly
ác pháp để chị hiểu ra rằng vũ trụ vĩnh hằng kia vốn lặng thinh, đẹp đẽ và các
pháp môn phương tiện tình thế độ ta đạt tới cứu kính giải thoát. Và chị sẽ liễu
tri rằng: Một đời một đạo đến ngày chung thân là câu nói khải ngộ vô minh. Chí
có đắc đạo là kết quả chung cùng cho muôn vạn kiếp đời tu tập giải thoát. Tôn
giáo là phương pháp siêu hóa tư tưởng con người, chứ không phải là lồng nhốt lý
tưởng giải thoát. Rừng hoa Phật Giáo có muôn hoa Phật Giáo, không bắt buộc ta
chỉ biết mỗi một hoa trang trắng, mà không dám tìm hiểu, nghiên cứu sen hồng rồi
tàn tạ lý tưởng, không dám vươn tới tương lai, nhìn biển rộng bao la mà không
dám chinh phục đại dương. Câu nói uổng phí là như vậy! Biết vọng không theo vọng
là nén tâm và vọng gõ cửa chọc trêu. Biết vọng quán bất tịnh khổ, xả ly vọng,
tâm bất tương ứng vọng, vọng viễn ly. Hai pháp ấy cách nhau một trùng quan. Trang
lại lý luận nữa rồi, cho nên người ta nói: thời đại hôm nay là thời đại của lý
luận, của đấu tranh kiên cố, của thiền mồm, thiền tưởng. Nên tu pháp Thầy là
đúng. Im lặng như Thánh. Trang thử đưa ra lý giải phàm phu cho vui vậy thôi.
Câu nói của người chứng ngộ là để đố người đọc thấy cái mình sai ở chỗ nào mà
tinh tấn sửa sai, hạ mình cầu đạo. Qua cuộc đàm luận này là nhằm mục đích nêu
cái tư tưởng phàm phu của mình để được học, được chỉ giáo, là bày tỏ nỗi lòng của
mình với tiền đồ Phật Giáo. Ba mươi năm chèo thuyền Mà không biết lối vào Một sự
phí phạm thời gian. Em ước mơ Thầy em sớm đủ nhân duyên cùng với những bậc chứng
đạo, chấn hưng lại Phật Giáo, bị một số người lợi dụng đưa chúng sinh đi sai đường
giải khổ. Cướp mất đi những thời gian quí báu bằng những hình thức viển vông,
xa rời bản giác, người tu chỉ còn lại trong tư tưởng mình những mê tín, những yếu
nhược chăm chú phụng sự cho những kẻ lừa đảo tôn giáo, người tín đồ mất chí
khí, bi, trí, dũng. Họ chỉ gần gũi những kẻ đi ngược lại đường lối, thanh tịnh,
thanh bần, bày vẽ đủ thứ lăng xăng, mà không quan tâm đến đời sống tâm linh của
tín chủ. Đem cho tín chủ phước thanh tịnh, xin lấy cho mình nghiệp khó khăn. Có
nhiều vị không dám tụng ngay câu ấy, mà sửa đổi tụng né qua âm nghĩa khác. Như
Đức Phật ngày một ngọ, tam y, nhất bát, bỏ ngôi vua, hòa nhập với thứ dân, xin
ăn tu học để biết thế nào là một đời sống vĩ đại Thánh thiện nhất xuất thế
gian, là buông xuống hoàn toàn và phải nên biết rằng chùa chiền, tịnh xá nhất định
không phải là tài sản sở hữu nơi cảnh xuất thế gian. Những vị chân tu là những
bậc Thánh nhân có công lớn trong cuộc chấn hưng Phật Giáo. Những bậc đắc đạo là
cứu tinh của nhân loại. Xã hội Việt Nam ta sẽ là một đất nước phú cường giàu mạnh,
giàu chất bi trong cuộc sống và Thánh trí Như Lai sẽ đưa chúng sinh đến bờ an lạc
trú định, hạnh phúc vô biên. CHỮ TỊNH TRONG ĐẠO PHẬT Một đêm đẹp trời trên chuyến
phà An Hòa - Cao Lãnh, tôi gặp lại anh Châu Chơn, người hiệu trưởng năm xưa.
Sau những lời chào hỏi thân thiện, tôi được anh kể cho nghe về quá trình tu tập
pháp môn Tịnh Độ: -Với công phu: Tín, Hạnh, Nguyện và niệm Phật miên mật chắc
chắn sẽ được Đức Di Đà tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Pháp Di-Đà là kim
ngôn ngọc ngữ của Phật nói ra. Pháp Di-Đà dễ tu, dễ đắc. Niệm Phật chí thành mười
người tu mười người vãng sanh. -Thưa anh Châu Chơn, theo anh pháp môn Tịnh Độ
là của Phật nói ra và vô số người trên hành tinh này cũng nói như anh. Nhưng
thưa anh, tôi cũng niệm Phật như anh vậy, nhưng từ khi qui y với khất sĩ, xem
qua chân lý của Tổ tôi được biết đây là bài pháp huyền phương tiện và gần đây
nhất được tham kiến vâng học với Thầy Viện Chủ Chơn Như, tôi ngộ ra đây là pháp
môn do các Tổ sau này tùy duyên lập ra chứ trong kinh gốc của Phật không có nó.
Anh Châu Chơn à! Chúng ta ngồi trông đợi mùa xuân đến, nhưng lòng ta không có
tương ứng với mùa xuân ấy, buồn quá đi thôi. Tham, sân, si từ bao kiếp đời bám
rễ sâu dày và mỗi sát na trầm luân sanh diệt vương vấn trong lòng chưa hề xả
ly, thì dù mùa xuân bên cạnh cuộc đời chúng ta vẫn là một mùa xuân vô vị. Pháp
niệm Phật, tôi thấy có một ưu điểm là đè nén vọng niệm để giữ chánh niệm và cứ
thế chúng ta lăn lộn trong cuộc đời vọng niệm, hoặc chướng lăng xăng và chúng
ta được đối trị, ức chế nó và trông chờ ở một tha lực huyền diệu của Đức Di-Đà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét