218-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT
PHÁP TẬP 5: HƯỚNG VỀ CHƠN NHƯ/ 1
Gieo năm vóc tú căn vào cõi sống Gọi hồn thiêng
thường tĩnh với Chân Như Buông áo Pháp, vọng duyên ngời Trí Tuệ Tặng Mỹ Châu ĐẠO
PHẬT KHẤT SĨ Sự xuất hiện của Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang vào giữa thế kỷ 20, với
hình ảnh của Đức Như Lai nối tiếp đường lối Tam Y, Nhất Bát Cụ Túc Giới Thanh Bần
của Đức Phật (vị Thái Tử bỏ ngôi vua). Với đời sống vô ngã, lợi tha, đã tự độ
mình trước và sau đó độ người. Tôn Sư Minh Đăng Quang đã đem lại ánh hào quang
cho Phật Giáo. Sau khi vắng bóng Đức Tôn Sư, y bát truyền cho vị sư là Thích
Giác Chánh. Ngày nay, hàng triệu Phật tử gọi nhà Sư Thích Giác Chánh là vị nhị
Tổ Khất Sĩ Việt Nam. Theo truyền thống giải thoát của Phật Giáo, nhất là hệ
phái Khất Sĩ, chức vị và danh vọng vốn không có. Một vị Sư cao khiết, tôn quí
là do nơi giới luật thanh tịnh, đời sống thanh bần giải thoát. Qua cái nhìn ấy
chúng ta có thể khẳng định nhà Sư Thích Giác Chánh thật xứng đáng là Tổ chơn
truyền, đại diện cho màu áo Khất Sĩ Việt Nam, xứng danh là đệ tử của Tổ Minh
Đăng Quang, đệ tử của Chư Phật. Ngược dòng Phật Giáo Khất Sĩ Việt Nam, kể từ Đức
Minh Đăng Quang vắng bóng đến nay, có được bao nhiêu người sống đúng hạnh đức
giải thoát Khất Sĩ. Có lẽ duy nhất một Nhà Sư Thích Giác Chánh. Chúng ta hãy
nhìn vào gương hạnh của Ngài thì sẽ biết. Nhìn vào Tịnh xá ngày xưa và ngày nay
quí vị cũng tự hiểu. Nhìn vào nhà Sư Khất Sĩ ngày xưa và ngày nay quí vị cũng tự
hiểu. Mục đích của chúng ta là đi tìm sự giải thoát. Quí Sư Khất Sĩ bao giờ
cũng tuyệt vời nhất. Hàng Phật Tử chúng ta ước ao có một Tịnh xá Đạo tràng đúng
nghĩa của nó. Chúng ta rất tự hào Việt Nam có một Khất Sĩ Thích Giác Chánh. Ở
đâu có chân lý ở đó có giải thoát an vui, có vượt qua sinh tử. Nơi bộ chân lý của
Tổ Sư Minh Đăng Quang là cửa ngõ về nguồn của nhân sanh. Những gì xa rời với
chân lý, không thể nào chứng ngộ giải thoát, thực tại chúng ta đã thấy. Sống
đúng và hành động chân lý, Nhị Tổ Khất Sĩ Thích Giác Chánh đã thể hiện đức hạnh
siêu việt gương mẫu cho đời... Sau khi Tổ Sư vắng bóng, may mắn thay cho nhân
sinh còn lại bộ chân lý, mạng mạch của Phật Pháp. Còn một quyển Bồ Tát Giáo
không biết vì nguyên do nào không thấy xuất bản nữa. Vì sao? Ngày nay tôi tự hỏi,
người đệ tử Phật sau khi rời Tịnh xá về họ được ích lợi gì cho tinh thần giải
thoát, chân lý có được diễn giải, có ai chỉ cho phép tu thực hành sơ cấp tại
gia. Ước mong sao cho Khất Sĩ ngày nay đẹp đạo tốt đời như ngày xưa, biết lấy
giới luật đi qua nhịp cầu sanh tử, đắc định, đạt đạo đòi lại cái quyền làm chủ
nhân quả. Người cư sĩ ngày nay bị thiệt thòi nhiều mặt, nhất là về tài lực, tuệ
lực, cuối cùng chỉ được phần nào phước báo hữu lậu, to lớn về danh, ngã, lờn mặt
với chư Sư, bởi vì họ chưa hiểu được giá trị của sự giải thoát. Có một kỹ sư
qua trao đổi với tôi, em tâm sự rằng: Em thấy một vị Thầy xuất gia, một Ni cô
chạy xe gắn máy Honda, em thấy nó làm sao ấy. Mặc dù người ta không biết giữ giới,
không rành luật Phật, những người trí thức, bình dân người ta biết suy đoán.
Tôi tự nghĩ mình còn lắm mê đâu dám đem đuốc mà soi cho ai, chi bằng mình lo giữ
phận, tự sửa lấy mình, mình mê mình biết mình đang mê, ráng tịnh chỉ cho sáng
trong đời sống thường tục, mình biết mình còn dục chỗ nào, chưa xả ly ác pháp
làm sao? Mình biết mình là mê đồ, tội lỗi và mình rất thắm thía với nỗi đau ấy,
với nhiều kiếp tội vay. Là phàm phu nợ nào cũng phải trả cho vẹn vẽ, để buông
xuống hết cho toàn vẹn, thì mới đi xuất thế gian được. Có một Cử nhân kinh tế học
tâm sự với tôi: - Trang đi vào một Tịnh xá nọ thấy hệ thống ănten được giăng
lên, thời biết rằng có tivi, đầu máy, thì làm sao có tịnh chỉ nhĩ căn, nhãn
căn, ý căn? Bị hỏi bất ngờ tôi chống chế: Biết đâu là của cư sĩ vì nơi đó là
nhà khách mà! - Nếu nói như anh thì Trang nghĩ nơi thanh tịnh lạc Niết Bàn vì
phương tiện độ người lại biến thành nhà thế gian sao? - Này Trang, biết vọng đừng
theo vọng, vậy là hằng sống với bổn lai diện mục. Trang không nghe sao, tùy
duyên mà độ hóa chúng sanh. Trang không nghe Phẩm Phổ Môn có nói: Chúng sanh muốn
gì thì hóa thân đó tiếp độ, một vài chùa Đại Thừa vì thương chúng sanh tạm hát
cải lương đạo, nhạc đạo để độ dần chúng sanh, Cô hiểu cho. - Nói như anh thì Phật
Giáo là hữu ngã cho nên phải cung phụng cho cái ngã, cho sáu căn, như vậy rất
trái với câu Phật ngữ: Phòng hộ sáu căn. Lại nữa, tôi thấy Trai tăng quí đạo hữu
để tiền vào phong bì, làm vật phẩm ăn uống rất thịnh soạn, tốn nhiều tiền của,
trong khi thiên hạ đang đói khổ đầy đường. Theo anh đó là phương tiện hay là
làm trái với tinh thần vô ngã lợi tha giới luật thanh tịnh của chư Phật. Theo
tôi, khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm đáp ứng cho đời sống thế gian, đáp ứng cho
sáu căn thỏa mãn, như vậy thì đáp ứng cho tưởng dục chứ gì, và cũng chính những
vật dụng này làm cho bao người mê sảng, nó làm những điều ác đọa lạc và anh thấy
không: Thế giới chúng ta mỗi ngày mỗi suy giảm đạo đức sống, do đó mà chiến
tranh, mà phi nhân bản, .. chủ nghĩa hình thức, lợi dưỡng đua đòi, chính là sự
dãy chết nghị lực và nhân cách cao quí. Tôi không hiểu được đó là tùy thuận thế
gian hay bị thế gian xỏ mũi. Theo anh nghĩ sao? - Câu hỏi này tôi không khả
năng để trả lời, vì tôi cũng bị thế gian xỏ mũi. Mong Cô cũng thông cảm mà hiểu
cho rằng bản năng phàm phu vốn có hạn, và chúng ta cũng nên hiểu rằng những bậc
xuất gia là những vị anh hùng, những chiến sĩ chiến thắng vọng niệm. Thưa Cô
"Thúy trúc huỳnh hoa phi ngoại cảnh", sống ngay hiện tiền, là sống với
tâm Phật thanh tịnh, những chuyện hôm qua biết làm gì, và ngày mai thì chưa tới;
cứ an nhiên tự tại trong cuộc sống. Thấy cái ly thì biết đó là cái ly, khởi vọng
niệm làm gì; giữ tiền, chạy xe là phương tiện, nắm tay sắc tướng đi khắp ta bà,
khi trở lại nhà mình vẫn không dính mắc đó là đạo. Tu theo Đại Thừa khác với
Nam Tông, Tiểu Thừa chấp giới tướng. -Thưa anh, tôi không cần biết Đại Thừa hay
Tiểu Thừa, với Chánh Kiến tôi thấy tự ngàn xưa Đức Thái Tử Sĩ Đạt Ta, sau khi
ly dục ly ác pháp đã đắc quả A-La-Hán. Như anh nói cần sống với hiện tiền, thì
anh sống với tâm nào? Nếu nói sống với tâm xưa là Phật tánh vô tình đã lừa đảo
chính anh, anh đang sống với cái ngã không thực, vì còn đang tu, đang ức chế
tâm chưa xả sạch tham, sân, si. Nếu nói đang sống với tâm hiện tiền thì chấp
thường, chấp đoạn đem lời nói Tổ ra để ứng xử, là vay mượn kiến thức người
khác, đó là chưa nói tới vô số Kinh Đại Thừa hôm nay mạnh ai nấy nói, nói sao
thì nói. Theo tôi, tôi thấy họ chưa chứng A-La-Hán. - Theo tôi, đường đi của Đức
Phật hôm qua còn tồn tại lại trong các tạng Kinh Nguyên Thủy, hay hôm nay là bộ
chân lý của Khất Sĩ Minh Đăng Quang là những nấc thang nối tiếp nhau, nếu ai bước
lên một nấc là bỏ được một nấc dục niệm, có buông xuống là có giải thoát, có
oai nghi là có kính tin, có thiểu dục tri túc là có an lạc. Con đường, nấc
thang đó không nhọc công gì tìm kiếm ở đâu xa, mà nó chính là Pháp Tứ Niệm Xứ,
Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, à, trên thân quán thân, tôi thở tôi
biết tôi đang tỉnh thức mà thở, quán ly tham tôi tỉnh thức mà biết rõ rằng tôi
xả ly tham, anh biết không xả hoài thì có ngày cũng hết. Con đường chế biến Đại
Thừa Giáo hôm nay là con đường thẳng tắt, nhưng em thấy những hành giả không biết
lối nào vào động thiếu thất. Em thấy họ có xe hơi, có chùa to, lý luận xuất sắc,
gọi người đời bằng chú, bằng bác. Khi em hỏi một Thiền sư rằng vị đắc quả
A-LaHán muốn tái sinh lại độ đời, khi trong thai, khi chào đời vị A-La-Hán ấy
có biết, có đau đớn không? Vị Thiền Sư với 18 năm ấy trả là không! Theo anh
nghĩ sao? Vì thế mà sau bao cuộc đi tham kiến em thấy mình như bị bế tắt hoàn
toàn, rất hoang mang. Do đó sau khi nghiên cứu về Nguyên Thủy Phật Giáo, qua sự
hướng dẫn của Thầy em, người đã từng từ con đường này mà đi đến an lạc, trú định,
làm chủ được dòng nhân quả và qua nghiên cứu chân lý Khất Sĩ em thấy những tâm
hồn vĩ đại đều tương ứng nhau. Chân lý vốn không sai khác, chỉ có ngoại đạo vì
tham danh lợi mà bày đặt đủ thứ, có thể nói là nọc độc của tư tưởng triết học
Phật Giáo. Việt Nam ta có vài vị chứng đạo, không biết thế giới có chăng? Qua
diễn đàn Phật Giáo thế giới thì không thấy. Đó là sự thành tựu tinh hoa của Phật
Giáo Việt Nam. Từ một đời sống thanh bần Giới, Định, Tuệ và từ sự gian khổ mày
mò với một quyết tâm chịu khó vĩ đại để vượt qua dòng sinh tử, giáo lý ba nghìn
năm và hạnh tu tuyệt vời đã có mặt trên xứ sở ta đó. Tiếc thay những người đệ tử
không đi theo con đường đó, vì thế mà gần nửa thế kỷ nay có thêm chăng một ông
Khất Sĩ, một ông Thầy nào đắc quả A-La-Hán chưa? Để cho người đời nói: Có một
vài cửa chùa giống như nơi kinh doanh tôn giáo, xu nịnh cư sĩ, tài sản tiền bạc
như thế gian, thuyết pháp thì như vậy mà làm thì không giống vậy. Bởi vậy gặp Đạo
Phật đâu phải dễ, gặp Phật không tu, không thọ pháp công phu thì Phật cũng phải
chịu. Do vậy chữ phước đức theo Phật Giáo là tích cực làm bằng tỉnh giác thiện
lành thì có tiền của mà ăn thanh bạch, tích cực xả ly ác pháp từ nơi thân, nơi
tâm mình thì mới được, có ai cho mình đâu. Con đường thành tựu A-La-Hán, không
có lối cho danh lợi chạy vào, dù Bill Gate cũng không mua được, chỉ ở không
gian phần mềm hữu hạn, ở phước nhân thiên thôi. Em ước ao chân lý và giáo trình
tu tập của Thầy sớm được phát triển tích cực. Đó là một phước đức vô cùng vĩ đại
cho dân tộc ta, cho nhân loại trên toàn thế giới, một câu nói của vị chứng ngộ
có sức chuyển đổi vô cùng quan trọng. Sản phẩm trí tuệ của người chứng ngộ đều
tương đồng với nhau ở chỗ mầu nhiệm giải thoát, con đường nào làm cho chúng
sinh hết khổ, an vui, đó chính là Đạo Phật. Những gì sống như thế gian, đó là
ngoại đạo trong Phật Giáo. Em nghe Thầy em nói : Nghề nghiệp chính của người tu
sĩ là xin ăn, tu học . Ngày nay, em thấy nhà sư không có đi bát hóa duyên thanh
tịnh oai đức. Các vị chức sắc nói rằng: Chấn chỉnh Phật Giáo, nhưng em thấy khất
cái đang chen vào hàng ngũ Tăng Sĩ. Do cúng kiếng dư thừa tại tu viện, tịnh xá
cho nên có nhiều nhà Sư đi bát chỉ là chiếu lệ. Nghe nói có ông sư nào đó có
bánh mì dư do đi bát đem cho cá ăn. Phật tử thì tổ chức nấu ăn ngày hai ba bữa,
thật là đau lòng cho những người gieo năm vóc cúng dường, thật là xót xa ứa lệ.
Không biết đó là sự cúng dường hay là sự cho vay. Cách đây bảy năm về trước, em
nghe nói có một vị Sư, Tết đến ông ta bắt Phật tử nhà giàu gói một đòn bánh
chưng thật vô cùng lớn, mỗi lớp một màu thật là cầu kỳ, nhân bánh được làm bằng
những món thật là đắt tiền, nghe đâu gần cả lượng vàng, nhà Sư đó cho đến nay vẫn
còn ung dung tự tại, ăn mòn từng tế bào Phật Giáo. Nhà Sư đó có phải là ông
Tăng chăng? Ông ta sống thật sang trọng lợi dưỡng. Em đến Trung tâm tịnh xá, thấy
tiềm lực của Phật Giáo thật là sung thịnh, nhưng em cũng không khỏi bâng
khuâng, dòng chảy kinh tế tài lực ấy, nếu biết khai nguồn đúng dòng chảy sẽ là
những thiền đường mọc lên, người Phật tử đến đó thọ Bát Quan Trai Giới, thực
hành pháp tu do thiền sư chứng ngộ, có kinh nghiệm hướng dẫn, đó là Đạo Phật độ
người giải thoát, và sau đó là quỹ tín dụng không lãi, trại cô nhi, trợ giúp
cho bệnh viện, lành mạnh cho xã hội. Cũng chính ngày lễ hôm đó, em ghé vào
phòng ấn hành kinh sách, em mới ngẩn ngơ ra rằng: vì nơi đây có lẽ là nơi kinh
doanh hơn là nơi đưa đạo vào cuộc sống cho cuộc đời tốt đẹp hơn, với quyển Chơn
lý mà em định mua để tặng cho một vị Thầy, ông cư sĩ bán kinh sách ấy định giá
tám chục nghìn đồng. Em hỏi: Thưa Cư sĩ dường như trò nghe có năm sáu chục gì
mà, ông ta bớt xuống mười nghìn. Toàn đoàn Phật tử sao không rót tài chánh vào
để ấn tống? Các vị chấn chỉnh Phật Pháp ở đâu? Có phải chăng đó là sự kiệt quệ
của di sản văn hóa Phật Giáo? Có một Thầy Đại Thừa hỏi em, sao cô biết Phật
Giáo suy tàn, Phật Giáo Tối Thượng Thừa ngày càng lớn mạnh trong nước ta và có
cơ lan rộng ra thế giới nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét