Thứ Tư, 22 tháng 2, 2023

160-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT PHÁP TẬP 3: NHỮNG LỜI DẠY NÀY TRONG KINH NIKAYA.

 

160-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT PHÁP TẬP 3: NHỮNG LỜI DẠY NÀY TRONG KINH NIKAYA.

 Hỏi: Kính bạch Thầy, tấm bia trước Tổ đường phía bên tay trái, có những câu Phật dạy trong kinh A Hàm, theo con nghĩ Kinh A Hàm thuộc Hán Tạng chịu ảnh hưởng Ðại Thừa, nên không đúng lời dạy Nguyên Thủy của Phật. Sợ e Thầy khắc vào bia đá để lại đời sau người ta hiểu sai lạc. Xin Thầy dạy rõ cho con hiểu. 

Ðáp: Tất cả những câu kinh ấy đều được Thầy trích ra từ lời dạy của Ðức Phật trong các bộ kinh Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng, Tăng Chi. Ðó là những lời dạy của Ðức Phật và đã được xác định rõ ràng về Sơ Thiền. Trên bia đá ghi: 

1/ Ta nói giới luật là chỉ cho tâm ly dục ly ác pháp (Sơ Thiền). 

2/ Ta nói ly dục ly ác pháp là chỉ cho tâm không phóng dật (Sơ Thiền). 

3/ Ta nói tâm không phóng dật là chỉ cho tâm vô lậu. (Sơ Thiền). 

4/ Ta nói tâm vô lậu là chỉ cho tâm vô dục bất động (Sơ Thiền) 

5/ Ta nói tâm vô dục bất động là chỉ cho tâm nhập Sơ Thiền (Sơ Thiền). 

Năm câu này được rút ra từ các bộ kinh Nikaya. Trên đây chỉ rút ra năm câu, còn rải rác rất nhiều câu khác nữa nói về Sơ Thiền. Như vậy Sơ Thiền là một loại thiền đặc biệt của tâm, một loại thiền để chỉ tâm thanh tịnh, một loại thiền giải thoát tâm ra khỏi các chướng ngại pháp, một loại thiền quí giá hơn các loại thiền nào khác. Nó là một loại thiền mà Ðức Phật gọi là tăng thượng tâm, một loại thiền tối thượng về tâm. Trong năm bộ Kinh Nikaya mà tôi chưa có dịp rút ra để giúp quí vị tham cứu những tên của Sơ Thiền, vì Sơ Thiền là một loại thiền định của tâm rất là quan trọng trong giáo lý Ðạo Phật. Sơ Thiền đã xác định cho chúng ta biết, nếu ai sống đúng giới luật, sống đúng thiện pháp, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào và trong tâm không còn một chút ác pháp nào thì mới nhập được Sơ Thiền. Sơ Thiền không thể dành cho những tu sĩ phạm giới, phá giới. Còn ham ăn, ham ngủ, ưa thích ăn ngon, ăn thịt chúng sanh, thì chẳng bao giờ nếm được mùi vị của Sơ Thiền. Dù họ có tu kiểu nào, có dùng thiền định cỡ nào thì tâm họ vẫn còn ngũ triền cái che đậy. Giới luật còn vi phạm thì dù họ có nhập định kiểu nào hay có thần thông, hoặc tọa thiền năm bảy ngày hoặc một tháng hai ba tháng thì đó cũng chỉ rơi vào thiền tưởng chứ không thể nào nhập Sơ Thiền được. Vì thế toàn bộ trong kinh sách Nguyên Thủy, thỉnh thoảng chúng ta đọc, lại gặp một tên khác nhau nhưng chính nó là tên của Sơ Thiền. Nếu một người chịu khó nghiên cứu kinh Nguyên Thủy mà không được một người có kinh nghiệm về con đường Bát Chánh Ðạo thì người nghiên cứu ấy sẽ đi lạc vào trong khu rừng già âm u, mà không biết lối ra. Có nghĩa là hiểu kinh sách Phật theo kiểu học giả thì chẳng bao giờ tu hành tới đâu cả. Chữ nghĩa mà lại hiểu chữ nghĩa thì biết cái gì mà tu. Chữ nghĩa trong kinh là để hiểu ý Phật, hiểu ý của Phật là để tu hành giải thoát. Nếu hiểu ý Phật là để mà hiểu ý Phật thì có nghĩa lý gì đâu. Ðọc kinh hiểu ý Phật là khó, hiểu ý Phật thì kinh không thay đổi. Ðọc kinh hiểu chữ nghĩa thì dễ, hiểu chữ nghĩa thì kinh thường thay đổi. Vì thế năm nay thuyết giảng bài kinh đó sang năm cũng thuyết giảng bài kinh đó, nhưng năm nay giảng nghĩa như thế này, sang năm giảng nghĩa như thế khác. Ðó là những kiến giải của các nhà sư học giả tu hành chưa đến đâu. Những nhà học giả tu hành chưa đến đâu khi đọc vào những câu này họ chẳng biết tôi rút từ đâu ra, vì thế chỉ đoán chừng cho rằng tôi rút ra từ trong kinh A Hàm Tiểu Thừa (Hán Tạng). Những nhà học giả dùng trí tuệ hữu hạn để hiểu thiền định của Ðạo Phật thì cũng giống như con cóc ngồi đáy giếng nhìn bầu trời thì thấy bầu trời chỉ bằng miệng giếng chứ đâu biết rằng bầu trời bao la vô tận. Họ đâu biết rằng những lời dạy này không chịu ảnh hưởng kinh A Hàm, hoàn toàn nằm trong kinh sách NiKaya thuộc hệ Pali. Nếu người nào học thuộc lòng toàn bộ năm bộ kinh Nikaya thì sẽ thấy những lời dạy này là chính của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn người nào không thuộc lòng Kinh Nikaya thì không thể nào biết những câu này và cũng không hiểu nghĩa của nó nữa. Nếu chỉ đọc lướt qua kinh sách Nguyên Thủy thì không làm sao nhận ra được những câu kinh này. Cho nên những kẻ đọc kinh Phật lướt qua mà nói hiểu kinh Phật là một người nói vọng ngữ. Còn những kẻ nghiên cứu kinh Phật rất kỹ mà chưa tu hành tới nơi tới chốn, rồi kiến giải thế này thế khác, luận viết ra là những người lừa đảo người khác. Cho nên, những ai đọc trên bia đá của Thầy mà không nhận ra lời Phật dạy tức là đọc sơ lược kinh sách của Phật, chưa đọc kỹ từng câu, từng chữ, vì thế không biết những câu này và cũng không hiểu được ý Phật dạy. Có nhiều người về đây đọc những câu kinh trên bia đá này, họ đều điên đầu không biết Thầy rút ra từ đâu. Họ nghĩ rằng Thầy bịa đặt ra. Có những nhà sư, nhà học giả cho rằng tôi đặt ra nào là niệm lực; nào là tịnh chỉ hơi thở; nào là giải thích Tầm Tứ theo kiến giải của tôi; nào là độc cư. Rồi đến những tên Sơ Thiền trên bia này, v.v... Còn một số tên khác nữa của Sơ Thiền mà Ðức Phật thường nhắc tới nhắc lui trong các bộ kinh Nikaya như: Tâm Ðịnh Trên Thân cũng là một tên chỉ cho Sơ Thiền, và Bất Ðộng Tâm Ðịnh cũng là một tên chỉ cho Sơ Thiền. Như vậy Sơ Thiền có rất nhiều tên mà các nhà học giả cứ theo chữ nghĩa để mà hiểu chữ nghĩa thì họ chẳng hiểu gì cả. Khi các đại đệ tử chứng quả A La Hán của Ðức Phật kết tập kinh điển lần đầu tiên không có ghi kinh chú giải lời của Phật, chỉ có người sau soạn viết kinh này với trí hữu hạn của học giả thì làm sao chú giải đúng nghĩa lý kinh được. Vì chú giải không đúng nghĩa của Phật nên người sau tu rơi vào thiền tưởng, sanh ra định tướng của tưởng, tưởng là định thật khiến cho biết bao nhiêu người lầm lạc trong sự tu tập của Phật Giáo. Nếu nói ly dục ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền thì ai cũng dễ hiểu, còn bảo rằng: Tâm định trên thân thì không ai hiểu là thiền gì. Tâm không phóng dật là một tên khác của Sơ Thiền, mà các nhà sư học giả không thể hiểu nó là Sơ Thiền vì họ chưa có ly dục ly bất thiện pháp lần nào nên họ đâu thấy được tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm ly dục ly bất thiện pháp hay nói cách khác cho dễ hiểu, tâm ly dục ly bất thiện pháp là tâm không phóng dật. Cho nên nói tâm ly dục ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền, nhập Sơ Thiền là tâm không phóng dật. Nói giữ gìn giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt thì họ không hiểu đó là tâm ly dục ly ác pháp. Vì thế, giữ gìn giới luật không hề vi phạm là nhập Sơ Thiền. Cho nên câu nói của Ðức Phật Ta nói giới luật là chỉ cho tâm ly dục ly ác pháp tức là Sơ Thiền vậy. Những nhà học giả với trí hữu hạn vô minh làm sao hiểu được. Vậy mà dám lấy kinh điển của Phật dạy người tu thì thật là không còn chỗ nào nói. Vì thế những nhà học giả từ xưa đến nay đã có công chú thích từng chữ trong các kinh điển Nguyên Thủy, thậm chí họ đã soạn thảo thành những bộ Tự Ðiển Phật Học, nhưng vì tu tập chưa tới nơi, tới chốn, nên sự chú thích những danh từ trong kinh sách Nguyên Thủy, họ đã làm sai lệch ý Phật, đó chỉ là tưởng giải của họ mà thôi. Cho nên ai theo nghĩa lý này tu tập thì chẳng có ai làm chủ sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi được. Tôi rất buồn cười việc họ chú thích danh từ tầm tứ theo kiểu kiến giải. Họ giải thích tầm tứ có nghĩa là tâm chú ý vào một đối tượng. Khi tâm chú ý vào đối tượng thì họ cho rằng tâm họ ly dục ly bất thiện pháp. Họ đâu biết rằng nghĩa tầm tứ mà cho là chú tâm như vậy đã biến pháp tu của Phật thành thiền ức chế tâm của ngoại đạo. Họ đâu ngờ rằng: lúc tâm họ bị ức chế tập trung vào một đối tượng thì không thấy tâm có khởi niệm, nên cho rằng tâm ly dục ly ác pháp. Sự thật tâm họ chưa ly dục ly ác pháp, vì lúc bây giờ tâm họ bị ngũ triền cái ngăn che. Do hiểu tầm tứ theo nghĩa như trên, nên họ cố gắng tập trung tâm để ức chế không cho vọng tưởng sinh khởi. Khi vọng tưởng không sinh khởi và có trạng thái hỷ lạc, họ cho trạng thái hỷ lạc ấy là trạng thái hỷ lạc của Sơ Thiền do ly dục sanh, vì thế họ cho rằng họ đã nhập vào định Sơ Thiền, nhưng sự thật thì họ nhập vào định tưởng. Hỷ lạc ấy là do xúc tưởng hỷ lạc khiến cho họ có trạng thái này, họ rất ưa thích. Khi tu hành thiền định sai như vậy, họ lại còn kiến giải che đậy, cho rằng tu tập như vậy là tâm có định, nhờ định đó mà tâm ly dục ly bất thiện pháp dễ dàng hơn là dùng pháp môn ngăn ác diệt ác khi tâm chưa có định. Do hiểu như vậy là họ có bốn cái sai: 

1. Cái sai thứ nhất không lấy giới luật làm chuẩn, vì con đường tu theo Ðạo Phật là phải lấy giới, định, tuệ, làm hướng đi. Họ lấy định đi trước giới, là sai, là kiến giải của nhà học giả, ngược lại đường tu của Ðạo Phật Giới sanh định mà họ lại lấy định sanh giới. Ðó là cái sai thứ nhất của những người tu học theo Phật Giáo hiện giờ. 

2. Cái sai thứ hai là kiến giải TẦM TỨ. Do kiến giải tầm tứ sai, không đúng nghĩa nên dạy người tu ức chế tâm rơi vào định tưởng. 

3. Cái sai thứ ba là khi rơi vào định tưởng, tưởng tuệ phát triển các nhà sư Nam Tông cho đó là Minh Sát Tuệ. 

4. Cái sai thứ tư là họ không phân biệt được tâm định như thế nào. Và thân định như thế nào. 

Họ chỉ nghĩ rằng khi tâm chú ý vào đối tượng hơi thở hay các cơ bụng phồng xẹp không niệm khởi là nhập định Sơ Thiền. Sự thật Sơ Thiền không phải định như vậy. Các nhà sư học giả đã lầm lạc, Sơ Thiền chính là tâm không phóng dật, cho nên đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào tâm cũng không phóng dật và như vậy mới gọi là tâm ly dục ly ác pháp, và như vậy mới gọi là nhập Sơ Thiền. Vì không có kinh nghiệm nhập Sơ Thiền nên các nhà sư học giả dạy phương pháp tu ức chế tâm mà cứ ngỡ đó là nhập Sơ Thiền. Cho nên tu sai mà không biết, không chịu trở về với pháp Tứ Chánh Cần. Pháp Tứ Chánh Cần còn có tên gọi là Ðịnh Tư Cụ. Nó là pháp môn tu thiền định của Ðạo Phật, chứ không phải hơi thở hay phình xệp nơi bụng. Phình xệp nơi bụng và hơi thở cũng chỉ là pháp tu tập tỉnh thức để giúp cho pháp môn Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác mà thôi, chứ nó không có thiền định gì cả, nếu lấy nó làm thiền định thì nó là thiền định tưởng. Vì muốn nhập được Sơ Thiền nên Ðức Phật dạy ngăn ác diệt ác sanh thiện tăng trưởng thiện, để biến bài pháp Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác sanh thiện tăng trưởng thiện bằng một pháp hành cụ thể thiền định, nên Ðức Phật dạy bài kinh Song Tầm và bài kinh An Trú Tầm. Ðồng thời bài kinh Song Tầm là Ðức Phật đã giải thích nghĩa chữ TẦM cho mọi người hiểu để mà tu Còn bài kinh An Trú Tầm là Ðức Phật giải thích nghĩa chữ TỨ rất rõ ràng. Hai bài kinh giải thích Tầm Tứ rõ như vậy mà các nhà sư học giả không chịu hiểu, lại hiểu một cách lệch lạc, biến thiền của Phật Giáo thành thiền tưởng, thật là đau lòng. Lỗi là do không tu tập đến nơi đến chốn nên không hiểu pháp hành của Phật, rồi chế ra thiền Minh Sát Tuệ. Từ các nhà sư học giả xưa chú thích giải nghĩa kinh sai lạc, làm cho người sau tu tập rơi vào tà thiền ngoại đạo (Thiền tưởng) mà không biết. Bởi vậy các ông tiến sĩ Phật Học chỉ có lừa đảo được những người tu chưa chứng, chứ những người tu đã chứng thì khó mà các ông lừa đảo được. Tóm lại các nhà sư học giả đọc những lời Phật dạy trên bia đá của Thầy, là họ đã điên đầu chỉ vì họ nói được, chứ chưa làm được. Do đó bản ngã to lớn chỉ biết đem miệng lưỡi tranh cãi chứ không biết ngăn ác diệt ác. Những điều ngày nay họ đã giảng sai Phật pháp thì ngày mai họ phải gánh chịu hậu quả, đến khi sắp chết họ phải chịu khổ đau trong những ngày cuối đời.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như...