Thứ Tư, 22 tháng 2, 2023

159-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT PHÁP TẬP 3: ÐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI BÀI BÁC NIẾT BÀN.

 

159-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT PHÁP TẬP 3: ÐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI BÀI BÁC NIẾT BÀN.

Hỏi: Kính thưa Thầy, con thấy bia đá sau Tổ đường, qua bài kệ. Thiên thượng thiên hạ. Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian. Sanh, lão, bệnh, tử. Lời chú giải của Thầy, con e rằng không đúng trong kinh Nguyên Thủy chăng? Vì trong kinh Nguyên Thủy Ðức Phật cũng có nói đến Niết Bàn mà ở đây Thầy lại bài bác Niết Bàn, vậy như thế nào? Xin Thầy giảng rõ cho chúng con hiểu. 

Ðáp: Niết Bàn là một danh từ mà các tôn giáo từ xưa đến nay đều dùng. Niết Bàn nghĩa thông thường là để chỉ cho một cảnh giới siêu hình, hay để chỉ cho một trạng thái ảo tưởng, khiến cho người ta khó hiểu, hiểu một cách lầm lạc, một cách sai lệch. Vì thế mà kinh sách thường chia ra nhiều cảnh giới Niết Bàn, để lừa đảo mọi người. Ở đây Thầy không bài bác Niết Bàn. Con hãy đọc lại kinh sách Nguyên Thủy, Ðức Phật đã xác định: Mục đích của Ðạo Phật không phải vì giới luật, không phải vì thiền định, không phải vì trí tuệ, không phải vì thần thông, không phải vì Niết Bàn, mà cũng không phải bất cứ một điều gì khác mà chính là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Cho nên bảo rằng Thầy bài bác Niết Bàn là không đúng. Vì chính Thầy lập lại lời Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã dạy những lời trên đây, Ngài đã xác định mục đích Ðạo của Ngài là không phải đi tìm Niết Bàn, mà để giải quyết tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Như vậy chính Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bài bác Niết Bàn. Mặc dù trong các bài kinh khác Ðức Phật có nói đến một ngàn lần Niết Bàn, nhưng Niết Bàn của Ðức Phật phải hiểu nghĩa là tâm bất động như lời xác định trên đây. Do đó chứng tỏ Ðức Phật không chấp nhận Niết Bàn theo nghĩa của ngoại đạo. Như vậy khi đọc chú giải của Thầy thì con phải hiểu được ý Thầy chứ đâu phải hiểu chữ nghĩa. Chữ nghĩa chỉ dùng để diễn tả ý của con người, nhưng chữ nghĩa không thể diễn tả hết ý nghĩa của con người. Cái hiểu của con chỉ là hiểu chữ nghĩa, chứ không phải hiểu ý người. Như vậy cái hiểu của con, con thử nghĩ cái hiểu đó có đúng hay không? Dùng chữ nghĩa để hiểu người chứ không phải dùng chữ nghĩa để hiểu chữ nghĩa. Các nhà học giả Nam Tông và Bắc Tông không phải là hành giả nên đọc kinh Nguyên Thủy của Phật không có kinh nghiệm tu hành không hiểu nghĩa chân thật, cứ theo chữ nghĩa mà kiến giải ra, làm lệch pháp hành, rơi vào thiền tưởng mà không biết, để sự tu hành bước vào đường cùng. Nhìn lại người tu hành theo Phật Giáo thì đông mà bất động tâm ly dục ly ác pháp thì chẳng có người nào cả, chỉ lòe những thiền tưởng để lừa đảo tín đồ, thật là đau lòng. THIỀN THỨ TƯ 

Hỏi: Kính bạch Thầy, trên bia đá trước Tổ đường bên tay mặt có bài kệ: Thở ra, không thở vào. Tâm trú vào chánh định. Không tham ái tịch tịnh. Với tâm an bất động. Như đèn sáng chợt tắt. Tâm giải thoát Niết Bàn Trên đây là một bài trong bốn bài kệ có tựa đề chung là Bát Niết Bàn. Vậy sao ở đây nó lại có tên là Thiền Thứ Tư. Như vậy có sai trong kinh chăng? Xin thầy chỉ dạy cho con được rõ. 

Ðáp: Bài Kinh Parinibhàna: tức là Bát Niết Bàn. Bài kinh Bát Niết Bàn này là bài thứ năm trong phần thứ hai của kinh Tương Ưng, tập I. Trong đó có những bài kệ tán thán sự nhập Niết Bàn của Ðức Phật. Trong bốn bài kệ tán thán sự tự tại nhập Niết Bàn của Ðức Phật, thì bài kệ thứ tư là của tôn giả Anuruddha tán thán pháp môn nhập Niết Bàn của Ðức Phật rất rõ ràng, đầy đủ ý nghĩa và hay nhất trong bốn bài kệ. Bài kệ này xác định được phương pháp thiền định làm chủ sự sống chết để vào Niết Bàn rất tự tại. Có nghĩa là tôn giả Anuruddha tán thán pháp môn thiền định tự tại vào Niết Bàn của Ðức Phật hơn là tán thán Ðức Phật. Do đó bài kệ của Ngài rất xuất sắc. Cho nên hai câu đầu vào đề của bài kệ, Tôn giả đã giới thiệu đại ý của bài kệ này cho chúng ta biết, Ngài nói: Thở ra không thở vào. Tâm trú vào chánh định. Ðó là hai câu kệ xác định Thiền Thứ Tư, một loại thiền định khi hành giả nhập vào thì phải tịnh chỉ hơi thở. Cho nên hành giả muốn nhập vào Niết Bàn thì phải nhập định này, ngoài thiền định này không còn có một loại thiền định nào có thể đi vào Niết Bàn tự tại hơn. Còn những câu kệ dưới: Không tham ái tịch tịnh. Với tâm an bất động. Như đèn sáng chợt tắt. Tâm giải thoát Niết Bàn. Bốn câu này chỉ cho trạng thái Niết Bàn, chứ không có gì đáng nói ở đây. Nếu lấy bài kệ này cho tựa đề là Bát Niết Bàn thì không hay bằng cho tựa đề là Thiền Thứ Tư. Tại sao vậy? Vì tán thán sự Niết Bàn của Phật, không bằng tán thán pháp môn làm chủ sanh tử để đưa Ðức Phật tự tại vào Niết Bàn. Vì tán thán pháp môn sẽ khiến cho người đời sau có lợi ích, biết rõ pháp nào đúng, pháp nào sai. Vì thế ngoại đạo không lừa đảo được tín đồ Phật Giáo. Còn tán thán như ba bài kệ trên chẳng có ý nghĩa gì cả, chỉ ca ngợi Ðức Phật mà thôi, sự tán thán như vậy không ích lợi nhiều cho chúng sanh. Chính tán thán Thiền Thứ Tư là tán thán Ðức Phật. Tán thán như vậy rất thực tế và lợi ích cho chúng sanh. Nhờ đó chúng sanh biết được pháp môn chân chánh, tu tập để đi vào Niết Bàn. Xưa Ðức Phật dạy: Người nào sống đúng giới luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, là ở gần bên Ta dù bất cứ ở đâu, còn kẻ nào sống gần bên Ta mà giới luật vi phạm là cách xa Ta ngàn vạn dặm. Ðó là lời Ðức Phật tán thán giới luật là để sách tấn chúng ta trên đường tu tập. Do đó tán thán pháp môn Phật nhập Niết Bàn là tuyệt vời không còn lời nào để ca ngợi. Chính Thiền Thứ Tư mới là chủ đề của bài kệ này, còn Niết Bàn chỉ là vấn đề phụ mượn nó để ca ngợi Ðức Phật mà thôi. Ở đây chủ ý của Thầy đưa ra bài kệ này để khắc vào bia đá, là mục đích phá vỡ những tư tưởng sai lầm cho Tứ Thiền là thiền phàm phu, thiền ngoại đạo, mà chính bài kệ này đã xác định: Ðức Phật muốn vào Niết Bàn thì Ngài phải nhập thiền này, chứ không phải những loại thiền ảo tưởng mà các tôn giáo khác và các nhà học giả kiến giải xây dựng, khiến cho người đời sau tu thiền mờ mịt không biết thiền nào đúng, thiền nào sai. Loanh quanh như lọt vào trong rừng thiền, trong mê hồn trận của thiền, không biết thiền nào là của Phật, thiền nào của ngoại đạo. Gặp thiền nào thì thiền đó cũng ca ngợi thiền của mình là Ðại Thừa Thiền, là Tối Thượng Thừa Thiền, là đệ nhất thiền v.v... Cho nên Thầy dùng bài kệ tán thán sự tự tại nhập Niết Bàn của Phật bằng chánh định. Chánh định tức là Tứ Thánh Ðịnh, để xác định cho mọi người biết chỉ có Tứ Thiền mới tịnh chỉ được hơi thở, mới làm chủ được sự sống chết, giúp cho mọi người không còn bị lừa đảo bằng những danh từ dỏm Ðại Thừa Thiền, Tối Thượng Thừa Thiền, Tổ Sư Thiền, v.v... trong khi đó chẳng làm chủ được hơi thở chút nào cả. Vị sư nào đến khi chết cũng để lại cho người sau một sự nghi ngờ chánh pháp của các Ngài, chết không làm chủ được sanh tử. Chỉ biết lừa đảo vọng ngữ gạt người. Tóm lại bài kệ này nên lấy tên là THIỀN THỨ TƯ là hay nhất.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như...