142-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT
PHÁP TẬP 3: ÐỖ THUÝ MÙI
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT . CON XIN ÐÊ ÐẦU ÐỈNH LỄ HÒA THƯỢNG BA LỄ (H,T THÔNG LẠC) Lá thư từ hải ngoại Kính bạch Thầy. Tên con là đỗ Thúy Mùi P.d: Thích nữ Diệu Minh, con vô cùng cảm kích khi nhận được quyển Ðường Về Xứ Phật Tập 10, và một quyển Giáo Án Tu Tập Của Người Cư Sĩ mà Thầy bố thí cho con. Chả là thế này, lúc nhận được sách là 12 giờ trưa ngày 9 - 3 -Tân Tân (1 - 4 - 2001) là lúc con bay sang Ðức. Chính vì lẽ đó nên con không hồi âm kịp thời được. Ðến nay mọi việc cũng như sức khỏe đã ổn định, con mới ghi thư báo tin để Thầy biết được. Thôi thì dù sao con cũng có lỗi. Vậy con xin cúi đầu đảnh lễ Thầy và thành tâm sám hối. Mong Thầy từ bi hoan hỉ, cho con được ân triêm công đức. Qua thư này, tâm nguyện con được bộc bạch với Thầy một đôi điều. Vừa báo tin. Vừa nói ra hết những chướng ngại pháp trong tâm con để con được đón nhận những liều thuốc trị bệnh của vị thánh anh minh bố thí cho con. Kính bạch Thầy, Thời gian từ tháng 12 năm 2000, con tiếp thu pháp môn tu tập Tứ Thánh Ðịnh dưới sự giáo dưỡng của Thầy, thông qua những quyển: - Ðường Về Xứ Phật, từ Tập I cho đến Tập 10. - Hai quyển Cẩm Nang Tu Phật. - Thiền Căn Bản, Tập 1 - Giáo Án Tu Tập Của Người Cư Sĩ, Tập 1. Con nghiên cứu áp dụng tu hành. Con thấy chuyển biến rõ rệt. Cụ Thể: * Tham con đã giảm hẳn. Ví Dụ: Các đồ nữ trang từ trẻ đến nay con rất ham thích và giữ khư khư. Thế mà qua đây, con đã tự lìa bỏ nó, không hề luyến tiếc. Con đã phân phát hết cho con cháu. Thấy vàng bạc, ngọc ngà con đã thử lại tâm xem, có thật nhàm trám hay giả vờ. Quả thật là chán ghét thật và coi đó là một thứ xiềng xích không hơn không kém, đã từ lâu trói buộc mình. Cũng vì những thứ ma quỷ này mà phải lao tâm khổ trí kiếm tìm, gây bao nghiệp quả. * Khi đối mặt với nhân quả, gặp cảnh trớ trêu: hai người cãi nhau về tiền bạc. Trong lúc đó tâm trạng con phải nghe những điều mà con không muốn nghe. Con bảo với con rằng mình phải làm thế nào đây? Ngăn ác bằng cách nào? Chỉ còn cách tự tìm tiền ở nhà mình đưa trả lại cho người kia. Ðược tiền thế là họ ra đi, cuộc cãi lộn chấm dứt. Thưa Thầy, như thế có phải, mình với họ có duyên nhân quả, cho nên sự việc xảy ra tại chỗ mình, mình phải chứng kiến, đối mặt không? * Về ăn con suy xét vẫn còn tham. Con ăn một bữa chính vào ngọ trai. Hai bữa phụ ( sáng tối). Hai bữa phụ con uống sữa và trái cây. Sang đây (Ðức) mức sinh hoạt cao, nhiều bữa con đã ăn thêm. Ví dụ: Ðã uống một ly sữa rồi, lại ăn thêm một cái bánh ngọt, hoặc kẹo nữa. Ðã uống một lít nước cam, lại còn ăn thêm trái táo nữa. Con không ăn lặt vặt mà ăn vào bữa tự con quy định. Như thế thưa Thầy có phải vẫn còn ham ăn hốt uống không? * Về sân. Có giảm nhưng ít lắm, phải khó khăn lắm mới thoát được. Ví dụ: Khi gặp nghịch cảnh đến, con vẫn thấy nó hừng hừng nổi dậy. Con phải vuốt từ ngực xuống bụng và dùng câu pháp hướng tâm: Tức giận là vô minh sao ngu thế, tự chuốc lấy phiền não vào mình. Cứ như thế thời gian một ngày một đêm nó mới giảm hẵn và mất tiêu không còn dậy khởi nữa. Ở Việt Nam con có hoàn cảnh tu tập thuận hơn. Ăn ngủ độc cư con thực hiện được. Từ ngày sang Tây Ðức đến nay, con gặp cảnh nghịch, tu có đối tượng. Ăn ngủ, nói chung vẫn giữ được, còn độc cư thì không được nữa, đôi lúc quên đi, còn tham gia vào cuộc tọa đàm của con cháu. Nói qua mà không lựa lời. Về giờ giấc tu tập không ổn định được nữa. Trong một ngày một đêm, lựa lúc nào thuận thì con ngồi kiết già và đi kinh hành, độ dài được 30 phút mỗi thời. Bởi vì sang đây con phải tham gia vào việc trong con cháu và thu dọn lặt vặt, giúp các con. Cơ bản việc tu tập vẫn duy trì được, song trong đó có giảm khoảng hai chục phần trăm. Thưa Thầy, tuy những pháp hành này là phụ song con nghĩ nó hổ trợ đắc lực cho cái chính. Như con thấy pháp hành trở thành nếp, rồi nó giúp cho mình có sức tỉnh thức cao. Từ đó mình mới nhận ra cái gì là ác, thiện để mình ly dục, ly ác pháp được. Kính bạch Thầy. Thực tại con đang trăn trở với những lỗi lầm của mình. Ðó là con đã tùy thuận nhận lời mời của các con con sang đây chơi. Con tự nói với con rằng dục lạc thế gian mình chưa từ bỏ, vẩn còn ham thích. Như đi chơi các cảnh quan - trong đó có tắm nước trị bệnh - rồi bơi thuyền vào những lâu đài tráng lệ, v.v ... Cứ mỗi độ như vậy con lại tự dằn vặt mình chỉ còn thức tỉnh tự bảo với con rằng việc này tuỳ thuận nguyện vọng của các con, chứ thực lòng con cũng không ham thích. Thật vậy. * Về ăn uống - ở bên này cuộc sống của người nói chung quá đầy đủ chính vì lẽ đó mà đồ ăn thật là đa dạng. Bình thường khi đói ăn cơm là no, khát uống nước lã là khỏi khát. Song không như thế, con cái mua về đủ các thứ bắt ăn. Mặc dù chịu áp lực như thế nhưng con vẫn phải giữ gìn tiết độ (không ăn phi thời lặt vặt). Thực phẩm động vật cũng không ăn. Tuy vậy con vẫn cảm thấy ham ăn, hốt uống. * Về mặc thì lúc còn ở Việt Nam, con thường mặc đồ nâu. Nhưng sang đây con phải mặc đồ màu khác để hoà nhập, con sợ nếu mặc đồ nâu, e con lại trở thành độc đáo. Con tự nhắc tâm rằng phải thanh thản bình thường, không thích mà ham muốn, không ghét mà gò ép. Lại còn màng lưới Ti Vi nữa. Phòng nào cũng có. Con tự tránh đi, ra ngoài đường dạo đi một mình. Chứ con không dám phản ứng. Vì như thế có thể những người gia đình cho con là ích kỉ và mình làm khổ người khác. Như thế có phải không thưa Thầy? Ở trong một biển dục lạc thế gian, con đang đơn phương chiến đấu với chính mình, cũng là một dịp để hiểu rõ được mình, xem xã bỏ tới mức nào. Hơn nữa ở bên này 95% người dân sống và làm theo pháp luật; hầu như nhất nhất họ theo kỉ cương pháp luật của nhà nước họ. Chính vì thế mà họ có một nếp sống thật là đạo đức. Ngay cả từ những cháu nhỏ khi ra đường chỉ nghe thấy những câu chào hỏi và cảm ơn thôi. Nếu ai có bị bơ vơ hoạn nạn, họ sẵn sàng giúp đỡ. Pháp luật (trong hình ảnh người Cảnh Sát) có can thiệp nhưng rất phân minh, họ không nhố nhăng như ở một số nước khác. Xe pháo để ở ngoài đường không có ai lấy. Ðây là theo cách nhìn của con. Cảnh quan sạch đẹp, môi trường trong lành. Rác bẩn được bỏ vào nơi qui định. Thưa Thầy, Thầy từng bảo ở đâu có nếp sống thiện thì ở đó có từ trường thiện. Với thực tại như ở Ðức đây, nhờ vậy con cũng học thêm được một lối sống đạo đức làm người. Có điều con vẫn bị thiệt thòi. Thứ nhất con chưa một lần được đến chiêm bái đảnh lễ Thầy, để được uống thuốc trị bệnh, đó là những lời chỉ bảo của Thầy. Thứ hai ở đây con đơn phương tu hành, không có bạn đồng tu, để có thể giúp con tìm ra những lỗi của con mà kịp thời uốn nắn, để giúp con tiến tu. Chỉ có bản thân tự nỗ lực qua nghiêng cứu kinh sách của Thầy mà áp dụng tu hành. Chính vì lẽ đó tránh sao được những gì mà mình không thấy biết là sai để kịp thời sữa. Sợ để lâu nó sẽ trở thành thói quen, khó sửa. Bên cạch đó cuộc sống ở đây quá đầy đủ, nên không trắc nghiệm được tâm, cho nên rất có thể giẫm chân tại chỗ. * Về hơi thở, con thấy có chậm và nhẹ. Thưa Thầy, trong ước nguyện của con, lúc con trở về Việt Nam, lúc đó Thầy vẫn còn tại thế. Nhất định con sẽ đến chiêm bái, đảnh lể Thầy trụ trì. Con sẽ sống tại nhà ở Xuân Mai Hà Nội. Nhất định con sẽ được uống những liều thuốc trị bệnh của Thầy. Nhất định lúc đó con sẽ là người li dục, li ác pháp hoàn toàn; ngũ triền cái và thất kiết sử không còn ngăn che, trói, buộc nữa. Nhất định con sẽ được Thầy thu nhận. Còn hiện tại, do gia duyên của con còn nặng quá, con đang phải đương đầu đối mặt với nó. Con sẽ vui vẻ trả nợ cho mỏng dần đi, để thực hiện cá vượt vũ môn. Lẽ thật hiển nhiên một kiếp sống con người là một chuỗi dài đau khổ. Có điều là phải nhận ra nó, đối mặt với nó để rồi được thoát ra. Theo lời Thầy dạy. Có đối mặt với nó thì mới thấy sự nhàm chán, để rồi dứt bỏ thực sự. Ðạt được sự từ bỏ này thì tâm sẽ ở trạng thái rổng rang thanh thản, chứ không bị gò ép, cũng như không bị ức chế tâm. Thưa Thầy, Dựa vào hành tướng của con, hằng ngày con thực hiện: Buổi sáng con dậy lúc 4giờ 30, vệ sinh cá nhân, sau đó ngồi kiết già từ 30 đến 35 phút. Khi xã, con xoa bóp các cơ bắp từ 10 - 12 phút. Sau đó con tiếp tục đi kinh hành ở trong nhà 30 phút. Rồi nghỉ ngơi ăn điểm tâm. Ðến 8 giờ sáng con cho cháu đi nhà trẻ. Và cũng từ giờ này con đi kinh hành vòng qua đường nhỏ trong phố. Ðường phố ở đây giống như công viên vườn hoa trái và yên tĩnh lắm. Ði khoảng 1 tiếng đồng hồ là con nghỉ. Buổi tối 10 giờ tối con lại ngồi kiết già 30 đến 35 phút; ngoài ra những hôm mất ngủ, con cứ tiếp tục ngồi, độ dài cũng trong phạm vi 30 đến 35 phút thôi. Thường ngày con dùng những câu hướng tâm. Tâm phải như cục đất: - Ðể nhập sơ thiền. - Ðể ly dục ly ác pháp mới chánh niệm tỉnh giác. - Ðể ly tham đoạn ác. Tâm không phóng dật. Xưa Phật thành chánh quả là nhờ tâm không phóng dật. Mới có nội lực. Tâm phải xã bỏ đoạn diệt với tâm ác độc, giận hờn, ghen ghét. Vợ chồng - Con cái đều là duyên nợ nhân quả, chứ có gì đâu mà hờn giận. Hay đối với người ngoài thì con dùng câu: Không được giận ghét, mình với người ta có nợ nhân quả cho nên mới có sự đối mặt, để trả vay. Vậy thù oán, giận ghét người ta là vô minh, v.v... Trong sinh hoạt hàng ngày phải đối mặt với cái gì thì con dùng câu pháp hướng tâm phù hợp với cái đó. Khi ngồi kiết già dùng 5 hơi thở để gom Tâm. Phải 3 lần tâm mới ở tụ điểm nhân trung được. Ngoài ra hôm nào có những duyên xảy ra mảnh liệt với con, khiến tâm con bất an, thì suốt buổi đó con nhắc đi nhắc lại câu pháp hướng, để xem lời của con ở góc độ nào? phát khởi do đâu? Có những lúc tâm hưng phấn vui vô cớ, con nhắc tâm: Tâm phải trong trạng thái thanh thản, khinh an vô sự. Các dục lạc thế gian có thật đâu mà ham. Con còn thừa lúc ngày nào con cháu đi vắng nhà hết, hôm đó con thọ Bát Quan Trai. Khi cả nhà về con lại xả. Thưa Thầy, cách thức tu tập của con là như vậy: Con biết rằng Thầy đang bận trăm ngàn việc. Tất cả cho thế gian nhân loại để đạt được ước muốn của Thầy, làm cho hành tinh này mọi con người đều có một nếp sống đạo đức nhân quả và nhân bản. Ðể đối xử với nhau bình đẳng thì tất yếu mọi người đều phải ly dục ly ác pháp. Cho nên thời gian của Thầy quí hơn vàng ngọc. Vậy mà Thầy đã mở rộng lòng từ, xem xét từng lá thư của những ai gởi đến thưa hỏi về đạo pháp. Thật vô cùng cảm kích. Thưa Thầy, Chính con là người đã can ngăn ông Minh Ðạo, trả lời Thầy Kiến Nguyệt trong Thiền Viên Trúc Lâm, thông qua lá thư trả lời ông bà Thức về một danh từ gọi là Trưởng Lão. Thưa Thầy theo thiển nghĩ của, có mấy lẽ: Nếu so về lý luận thì ông Minh Ðạo không bằng thầy Kiến Nguyệt được. Song ở góc độ một người tu, con thấy thông qua những lời lẽ trong thư mà Thầy Kiến Nguyệt kiến giải... Con thấy một ngày có 3 thời = 6 tiếng ngồi thiền và 45 phúc khóa lễ sám hối 6 căn 3 nghiệp. Thế mà khi có nghịch cảnh đến Thầy Kiến Nguyệt vẫn còn đủ ba độc. Xét như vậy thì ông Minh Ðạo không nên hồi âm làm gì. Im lặng - và im lặng là hơn hết. Chắc chắn lá thư ông Minh Ðạo gửi vào sẽ được đối xử bằng cách ném xuống đất mà không bao giờ đọc. Sở dĩ con biết như thế là có bằng chứng: Thứ nhất: Một lần đã có một người nào đó gửi thư cho Thầy Thông Giác (ở đạo tràng Quán Sứ). Thầy Thông Giác cũng xử sự như vậy. Thứ hai: Là năm 1998, con đã có duyên vào thiền viện Trúc Lâm chiêm bái, đảnh lễ Hoà Thượng Thanh Từ, và con được ở đó 1 tháng tu tập. Tại đây cũng có các quí Thầy, quí Cô thưa gửi (có tính chất kiện cáo) với Hòa Thượng. Nếu ai thưa hỏi, sẽ được một câu trả lời: Thưa hỏi bạn là mình đã có lỗi trước rồi. Thế rồi Hoà Thượng lặng thinh. Vì không có phải trái phân minh, nên sự oan ức thuộc vào ai, sẽ bị nén tâm trở thành á khẩu. Thưa Thầy, như vậy khi ngồi thiền vọng khởi lên. Vậy chẳng khác lấy đá đè cỏ chẳng? Trong giảng pháp của Hoà Thượng Thanh Từ luôn có những câu: Ðại ý Phật pháp là gì?. Ba cân gai là gì? Hỏi đông trả lời tây. Hoặc la hét. Thoi vào hông. Việc thiện ví như hạt vàng. Việc ác ví như hạt cát. Tâm ví như con ngươi mắt, vàng và cát bỏ vào mắt đều bị nổi cộm. Còn niệm còn sinh. Bặt đi vọng tưởng, bản lai diện mục hiện tiền. Hay thông qua bài viết của Thầy Thông Phương (Viện phó Viện Trúc Lâm): Chân lý sờ sờ.... Qua đây con cảm nhận được rằng nó có cái gì huyền bí, xa vời không xác thực.... Vậy đứng trước một thực trạng có 8 Chiếu và nhiều đạo tràng ở trong nước và nước ngoài Hòa Thượng Thanh Từ không thể nào nói khác được nữa: Ðứng lại thì chìm, đi thì phí, chỉ có vượt qua. Nhưng trớ trêu thay: Vua thì không thể nói nhầm được. Thật là cay đắng cho nhân loại hiện nay. Năm 1999 con đã thu xếp hành trang để vào xuất gia trong Thiền Viện. Nhưng đến ngày ra đi thì con gặp ngay một trận ốm, mà từ trước đến nay con chưa bị bao giờ. Vì như vậy con trì hoãn lại cuộc đi, mặc dù đã được Hoà Thượng hứa khả thu nhận con. Qua đây con suy ngẫm có mấy lẽ: Có lẽ tất cả về một con người, từ cách sống đến sự hưởng phúc duyên tốt xấu đều nằm trong lý nhân quả chi phối. Có phải thế không, Thưa Thầy? Vậy được gặp Chánh pháp - Minh sư. Hay gặp Tà pháp - Tà sư, hẳn cũng thế. Suy từ con. Nếu không có trận ốm để ở lại thì bây giờ chắc con đang là một tu sĩ trong thiền viện Trúc Lâm rồi. Thưa Thầy có thể những điều con trình bày đây sẽ bận tâm Thầy, song nó không ở ngoài phạm vi đâu. Nó là một cách hỏi pháp của con. Ðể chứng minh những điều Phật dạy tu không phải là tìm về với phương pháp tu theo Thiền Tông dẹp vọng tưởng. Giữa lý thuyết của pháp này và thực tế nó khác xa nhau, không thể nào tu có thành quả được. Sự ức chế để dẹp vọng; dẹp chẳng được mà còn mống thêm lên, con thấy như thế. Con cứ loay hoay tìm cách dẹp. Thậm chí con dùng pháp nín thở, chỉ có nín thở mới không có vọng. Cứ trong vòng lẩn quẩn như vậy. Con chợt nghĩ: Gió và nước là nhân duyên tạo ra sóng. Vậy ta phải ta phải dùng sóng để dẹp các rác rưởi đi... Ðang như thế thì con gặp được pháp môn tu Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Ðịnh dưới sự giáo dưỡng của Thầy. Con tự bảo với con một điều chắc chắn rằng con đã gặp Chánh pháp, đã gặp Minh Sư. Miệt mài nghiên cứu những quyển Ðường Về Xứ Phật. Áp dụng tu hành qua pháp hành dùng Lý Tác Ý. Con thấy có chuyển biến rõ rệt. Thưa Thầy: Như vậy có phải dùng ý thức dẹp ý thức không? Ðó là vô ngã với ác pháp - hữu ngã với thiện pháp. Cũng là sóng nhưng sóng để dẹp rác bẩn không? Chỉ có một điều là bản thân phải tinh tấn, cương quyết dứt bỏ những gia duyên trói buộc để thực hiện Cá vượt Vũ môn. Ðó là tâm nguyện con đang nuôi cấy. Thưa Thầy: Con thấy rất là lạ. Chưa một lần con được gặp Thầy cũng như chưa được chiêm ngưỡng chân dung của Thầy! Thế mà hôm tháng hai Tân Tỵ, con được đến Sư Tuệ Tỉnh ở Hà nội, để họp cùng tổ (tu Nguyên Thủy). Lần đầu tiên con được nhìn thấy chân dung của Thầy. Trong con lúc đó có cảm nhận rằng hình ảnh ấy giống hệt như con đã thấy tự bao giờ. Tự nhiên tóc gáy và gai ốc nổi lên. Có thể kiếp xưa con đã được gặp Thầy... Hôm ấy con có phúc duyên, được trực tiếp nghe qua làn sóng điện, tiếng nói pháp Thọ Bát Quan Trai của Thầy. Nó như sống động tự bao giờ. Duyên xưa chắc được gặp Thầy. Ở trong một biển dục lạc thế gian, con chỉ còn biết phải cam go chiến đấu với chính mình, vui vẻ trả nợ cho mỏng đi, để rồi được Thầy dang tay cứu giúp. Con nhất định được gặp Thầy. Kính Thư. Thăm và chúc Thầy. Ðịa chỉ của con:
Ðổ Thuý Mùi. 232/21 Phố Tôn Ðức Thắng, Hà Nội.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét