135-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT
PHÁP TẬP 3: GIÁC NGỘ VÔ THƯỜNG/ 2
Khi đạo Phật Nguyên Thủy được sống lại trong Tam
Minh của người tu chứng thì những tà pháp núp bóng Phật Giáo đã và đang bị quét
dần, dọn lại con đường Chơn Chánh cho nhân loại. Những phàm phu lạc lối như
chúng tôi dần định tỉnh lại và nhận ra bậc tàng Chân Lý giải thoát cao thượng.
Hy vọng rằng những cư sĩ như chúng tôi đều hiểu rằng không có bồ tát nào đau khổ
thế cho chúng sinh. Biết rằng kinh Pháp Hoa xúi giục con người tạo tội và lừa đảo
rằng sẽ có tha lực tưởng hay tụng vài phẩm Pháp Hoa sẽ hết tội. Sì ke ma túy là
đại họa; ai buôn bán, tàng trữ nhất định sẽ bị trảm. Quí vị nên lưu ý và đừng
có bao giờ ỷ lại vào Pháp Hoa. Tin Pháp Hoa nguy hiểm hơn là không tin vì đó
không phải chính thống của Phật. Tiêm chích sì ke là ác pháp vậy ngăn ác diệt
ác chính là hiểu rõ thực thể thống khổ, là một bi kịch cho gia đình của người
nghiện. Pháp Tứ Chánh Cần đi vào cuộc sống và rất thực lực hơn trong công việc
cải thiện xã hội. Pháp Tứ Chánh Cần là công cụ cần thiết tiến đến bất động tâm
định. Việt Nam ta có Ðịnh Tư Cụ đó, có Như Lý Tác Ý, có nền đạo đức nhân bản thực
sự, hy vọng sẽ cải thiện đời sống tinh thần chân chánh hơn. Những kim ngôn, ngọc
ngữ của vị Phật sống sẽ được tích lũy, sẽ nở thành những hạt nhân thiết tha với
tình thương nhân loại, sẽ gieo trong mảnh đất phù sa công đức, sẽ nẩy lộc xanh
tươi trên vạn nẻo đường đất Nước Việt Nam quê hương và Việt Nam trong lòng thế
giới. Bao giờ ngục tù mê tín trừu tượng bị phá vở, giải phóng những tư tưởng cuồng
tín bị tà tưởng kềm hảm thì tinh hoa trí tuệ của con người sẽ vươn đến thanh thản,
an lạc và vô sự. Lạ thay cầu an, cầu siêu tốn tiền của mà chẳng thấy an siêu. Cầu
Di Ðà tiếp dẫn mà tâm thức mải mê man. Thân xác đau đớn chỉ có cỗ xe tang đưa về
bến bờ sanh tử, thế mà vẫn cầu chẳng chịu xã tâm để tự cứu lấy đời mình bằng những
pháp hành ích lợi thiết thực của đạo Phật Nguyên Thủy. Sinh hoạt của vị A La
Hán là biểu tượng của lòng nhân ái, nhân cách sống tuyệt vời vị tha vô lượng.
Tay che dù đi trong mưa tầm tã, tay kia ôm tấm y vàng, những ngón tay níu lấy
bình thủy. Có lẽ vị sư già nào đó lạnh, khát trong mưa chăng? Gần từ trường của
vị A La Hán, trong tôi sự nhỏ hẹp, ích kỷ, tính toán hơn thua, khôn, dại vơi dần,
vơi dần theo cơn mưa hoàng hôn làm bầy chim trốn vội. Dạo này Chân Sư thường
xuyên bận dạy pháp hành, chỉnh sửa cho người tu sai pháp, chăm chú lắng nghe những
câu hỏi dài dòng lẩm cẩm, sẵn sàng thanh thản vô sự với những đối tượng cắt
dòng pháp nhảy vào họng Chân Sư. Thầy giáo lương tâm bao giờ cũng tận tụy thắp
sáng tương lai cho mỗi cuộc đời. Ðạo Sư luôn có đạo lực minh triết và bản ngã
đã bạt khỏi cuộc đời tự lúc nào. Tay áo tràng rách tơi ... Chiếc áo vàng thâm
kim, ngày chắt chiu từng mảnh Công Ðức của những người con cư sĩ yêu thương.
Ngài không dám phí từng giọt nước vì nhà máy nước khoáng Tịnh Tâm đang dân hiến
cho đời những ngọc nước trắng tinh khôi, kiếm tiền nuôi người nghèo, nuôi dưỡng
Tăng, Ni, Cư Sĩ đang qui tụ về Chân Như tu học. Tôi uống nước khoáng Tịnh Tâm,
tôi nhớ ơn người thắm thiết. Tôi ăn cơm ngọ Chơn Như, tôi nhớ ơn Chân Sư. Tôi
nhớ ơn cô Diệu Quang và các lính của cô. Cơm của cô nào là sầu riêng tín chủ,
thanh long đàn na, sửa tươi, rau sống, đậu hủ, mít, thơm, đủ sức nuôi dưỡng cơ
thể tu tập trí tuệ cho một ngày. Cơm công đức mặn mòi như biển cả. Tánh khí mạnh
như sóng trùng dương, nên nó trở thành dược lực. Những ngày tháng về Tu Viện ăn
cơm công đức, tôi có cảm nhận rằng bệnh lè phè giới hạnh, bệnh vô liêm sỉ trong
tôi thuyên giảm rất nhiều. Ôi tôi vô cùng biết ơn Thầy tôi, Vị Chân Sư trác việt.
Ăn bữa cơm hòa quyện tấm lòng như lý tác ý, tri kiến đời khổ hay vui. Tỉnh thức
tính phóng dật rông chơi, tàm quí, hổ trẽn, lương tâm tô thắm nghĩa nhân, buông
dần những ác pháp, hy vọng sẽ có một tương lai nhiều hứa hẹn. Sau bữa cơm ngọ
cái hôm mà tôi về Tu Viện thọ Bát Quan Trai. Tôi đến cái kệ thu gom mâm, bát mà
quí Chư Sư vừa sớt bát xong. Bổng Chân Sư cũng xuất hiện, tay nắm quai thùng
cơm định xách. Tôi nhanh chóng chấp tay xá và đưa tay như kiểu chào tạm biệt:
"Kính Thầy để con xách". Chân Sư nói rất có duyên và vừa như nài nỉ.
"Thầy định xách và tiện thể rửa cả luôn con!" - "Kính Thầy để
con trở xuống lần hai". Thầy cười nhẹ nhàng đi. Trò cũng cười mà nghe nó
đã trong bụng làm sao. Tôi nghĩ quí Ðại Hòa Thượng nổi danh hôm nay chắc gì
xách nổi thùng cơm! Phật sống là tánh giác được chuyển hệ qua lòng người. Danh
lợi ngã mạn là hiện tượng lạc pháp, là bệnh rào cản nhân bản, là ranh giới, là
tường lũy trong cuộc sống loài người. Chính rào cản này mà người ta chỉ đứng
bên bờ Sơ Thiền mà không nhảy xuống được hố thẳm Sơ Thiền... thung lũng giải
thoát... Do phàm nên không có trí tuệ, nặng nghĩa làm người tuân thủ những cam
kết. Chúng ta không đủ tuệ lực chuyển hóa nhân quả. Dưới đôi mắt người bình thường,
người thân, người đời, mình thật xứng đáng là kẻ thấp hèn, bỉ ổi. Mọi người đều
xem nhẹ, ruồng bỏ. Sân khấu nhân quả và chúng ta là đào kép của nghiệp lực. Sống
cho vẹn nghĩa người là tùy thuận, bằng lòng trả quả. Ðược kinh tởm và ruồng rầy
là một cơ duyên lớn trui luyện cho tâm thắm thía khổ và tỉnh ngộ tính vô thường
của vạn vật các tướng pháp bào ảnh. Lúc đó có thể chúng ta là kẻ độc hành, độc
bộ, gặm nhắm đau thương chứ không phải bị đau thương gặm nhắm. Kiếp người là khổ
và khổ để ta bầu bạn với cô đơn. Mỉm cười tiến nhanh về bến giác. Xin được giới
thiệu tôi là kẻ có diễm phúc bị ruồng rẫy và bị kinh tởm. Ðâu có gì lạ ta là kẻ
phàm trược trong cuộc đời. Gặp khổ cảnh tôi khắc khe với mình hơn, thu gom mình
vào nổi cô độc, gắng hướng tâm chặt chẽ, học tập gương hạnh thánh của Chân Sư.
Photocopy bản chính được cái nào nhờ cái nấy. Anh tôi bệnh, tôi đến từng người
nói lời thành thật biết ơn ... Những người nhọc khó, điều dưỡng giúp anh mình về
nhà bình phục. Những việc làm trên là tiến trình của diệt ngã xã tâm, phục hưng
đạo đức trong mỗi ý niệm, hành vi cuộc sống. Ðó là mô típ tư tưởng thanh thản,
an lạc và vô sự mà Chân Sư đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho mỗi người con còn
nhiều nghiệp lực. Cái diễm phúc nhất của đời tôi là tôi thấy được quá nhiều những
tệ hại và chướng ngại pháp trong tôi. Một ác niệm nhen nhúm nơi một người, rồi
một hội đồng, sẽ có thể đặt thế giới trong tình trạng báo động. Do đó Chân Sư lắp
đặt Ca-Ma-Ra Tứ Niệm Xứ nhằm phát hiện và quét sạch những nguyên nhân làm cho
chúng ta đau khổ, luân hồi. Tứ Niệm Xứ đem đến an tịnh thanh thoát cho mỗi
chúng sinh. Ðó là Vu Lan kể tội, sám hối, ngăn ác diệt ác, chuyển đổi nghề nghiệp
ác ra thiện, chuyển được món nào nhờ phúc ấy. Ðó là giải đảo quyền thoát kiếp sống
bị treo ngược đầu xuống. Ðó là Mục Kiền Liên đôi mắt hoa Sen, đôi mắt nhìn biên
biếc nhân quả. Tự cứu khổ chúng ta những Thanh Ðề ác trược. Ngày nay người ta lợi
dụng ngày lễ Vu Lan báo hiếu tốt đẹp thành ngày lo lót bao thơ, quà tặng, gởi
thiệp gọi mời dâng y Ca Sa. Có ông Tăng bà Ni nào nghèo rớt mồng tơi y áo đâu?
Bây giờ là triệu phú Tăng Ni áo y trăm bộ, tứ sự đủ thừa. Tâm nguyện sau ngày
này mỗi nông dân có tiền mua ruộng, mua phân, giống canh tác; những em học sinh
quá nghèo có tiền lo học phí; bệnh nhân có tiền đóng viện phí được cứu chữa
thoát hiểm. Có như vậy thì nước mắt chúng sanh sẽ không chảy xuống bến nhân
gian. Ðạo Phật thực tế cứu khổ con người. Ai vô minh chuyển thành những hình thức
ồn náo danh lợi, phủ trùm mê tín và phi lý thế? Tránh tốn tiền phi lý cho bá
tánh đó là đạo đức của giới tu sĩ, đó là phương pháp trợ thủ giải phóng dần núi
dục hoặc, nhằm làm sung thịnh cho đạo đức Phật giáo ích lợi cho nhân sanh. Bớt
dần và triệt tiêu ác pháp đó là tiêu điểm của đạo Phật hướng đến trí tuệ. Tiềm
năng của nhân loại rất lớn nếu không đỗ vào cuộc chiến tranh tàn bạo phi nghĩa
trên khắp hành tinh. Nếu tiền mua sắm vũ khí chúng ta đem trang bị cho hạnh
phúc ấm no, cho đạo đức nhân bản, cho khoa học thiện tuệ thì loài người sẽ sống
trong cực văn minh, an lạc và thanh tịnh. Kiếp người thật ngắn ngủi. Có người bốn,
năm mươi tuổi đã vĩnh biệt chia ly.... Tại sao loài người chẳng biết thương
nhau lại đấu thanh thảm họa? Giáo lý từ bi trí tuệ của Ðạo Phật chính là một
tôn giáo như thật thiết lập hòa bình, giải phóng đau khổ thực tế nhất. Có những
phương pháp đặc thù giúp thực hiện ly dục ly ác pháp, giúp chấm dứt đau khổ, giải
thoát vô minh. Do vô minh nên ba mươi năm tôi sùng bái thế giới vô hình, lòng
vòng với pháp tu tưởng cho đến hôm nay những bậc Thượng Tọa, Ðại Ðức, bậc Thầy,
đàn anh tôi vẫn còn nặng mang trong đầu một khối nghi to lớn. Nhìn hiện trạng
tu không kết quả, tu mãi tiếp duyên với bá tánh, tổ chức lể hội mê tín tốn tiền,
tu không đắc giới thanh tịnh. Tịnh Xá không còn là tịnh hạnh mà là môi trường để
đồng lỏa với phóng dật ... Không đi bát khất thực thì sao gọi là khất sĩ. Người
có chức sắc thì sao gọi là Khất Sĩ. Người có chức sắc thì phải tham ưu tổ chức
chánh chơn sự thanh tịnh giải thoát của đời sống xuất gia. Người ta luôn luôn
trọng tự do tín ngưỡng, đường lối đặt thù thánh thiện của đạo Phật để đưa đất
nước đi chung nhau trong lộ trình văn hóa, bản sắc đạo đức, đoàn kết, văn minh,
trí tuệ. Ðó là yêu cầu chung của dân tộc. Không có một chánh phủ nào chấp nhận
mê tín đang lớn mạnh trong đất nước. Không thể chấp nhận người tu sĩ không đúng
với nghĩa của tu sĩ, tức là tu sĩ không có đạo đức. Ai cả tiếng xưng mình là
người có công trong công cuộc hoằng truyền và hộ pháp suốt mấy mươi năm qua,
hãy ngoãnh cổ lại xem thân phận mình, Ðạo nghiệp mình! Thánh quả mình đắc chưa?
và hệ thống Giáo Hội Phật Giáo có thanh nghiêm giải thoát hay không? Ðã không
có trách nhiệm giữ gìn chân lý mầu nhiệm của Ðức Phật, lại tha hồ để cho những
triết luận phá giới của ngoại đạo, những tư tưởng tà kiến, mê tín lộng hành. Ðó
là đồng lõa dắt con người đi vào nẻo si mê là có tội với dân tộc. Mê tín giống
như rừng mắc cỡ gai e ấp trốn né sự thật, khoe mình với không tưởng trừu tượng.
Tà kiến giống như lủ chuột gậm nhấm cánh đồng phù sa trí tuệ. Cầu tha lực tưởng
thì chỉ giống như cây chùm gởi, bao giờ khẳng định được mình? Bao giờ trở thành
cây đại thụ? Ðây là nỗi lo mà những ai có trách nhiệm lương tâm đều phải có. Gặp
được Chân Sư đắc đạo sao còn nghi tình, còn bị danh, tự ái cản đường tiến hóa.
Hãy đến trao đổi để xác minh, thẩm định đi. Không nên đi ban rải những băng
thuyết giảng, những băng pháp không hay, nói lòng vòng, giảng trật đường ray,
mê tín mẹ Quan Âm. Có lần tôi thấy trong Tịnh Xá nọ có buồng cau trái đầy đặn
xinh tốt. Vị sư đi cùng tôi hỏi vị giảng sư trụ trì nọ: - Buồng cau ai biếu cho
tốt quá vậy sư? Giảng sư trả lời. - Ðể dành cưới vợ! Ông ta nghe nói ở Úc băng
thuyết của ông M. H. ấy tôi nghe chẳng có mùi đạo vị giải thoát gì cả. Nặc mùi
danh lợi. Ở Việt nam ông làm hao tổn vàng của tín chủ lừa đảo niềm tin, vô đạo
đức khi xem thường giới xuất gia. Ở Úc làm được cái gì nào? Tôi nghĩ rằng các vị
Thượng Tọa đem băng của ông làm việc trao đổi cúng dường, hay cho nhử Phật tử
là việc làm thiếu ý thức trách nhiệm. Người cư sĩ chúng ta cần quán triệt câu
nói của Ðức Phật: hãy tự thắp đuốc lên mà đi, vậy thì tu sĩ ngã mạn, tu sĩ phá
giới chính là chướng nạn của Phật pháp. Hãy thắp sáng trí tuệ, tự lực, xô ngã,
dọn đường để tiến lên phía trước làm ích lợi cho Ðạo Phật, góp phần dọn sạch mê
tín, ảo giác trong nền văn hóa Phật Giáo sống động ở xã hội ta. Chúng ta vô
cùng kính trọng Giới Ðức Tăng. Chúng ta không hề ngán một chút nào đối với Tăng
Tặc. Một tu sĩ khi thấy khả năng, đặc tướng của mình cần phải hoàn chỉnh, cần
phải chuẩn bị nhiều hơn nữa để xương minh hạnh thánh thì nên quyết định hoàn đời
có gì là xấu xa. Làm cư sĩ hộ pháp hướng tâm, thỉnh thoảng duy trì lối sống độc
cư, ăn ngọ, tịnh chỉ ngôn ngữ, nuôi lớn phục hồi lý tưởng chấm dứt đau khổ,
giúp ích xã hội còn hơn mặC áo Tăng mà không giữ Giới Luật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét