116-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT
PHÁP TẬP 3: PHÁP THOẠI TÂM THANH TỊNH LÀ NHỜ LY DỤC LY ÁC PHÁP, CHỨ KHÔNG PHẢI
CHẲNG NIỆM THIỆN NIỆM ÁC/ 1
Ðáp: Dục và các ác pháp làm cho tâm mình động, chứ đâu phải không động. Khi tâm bị động thì mình phải quán xét. Quán xét thì phải dựa theo lời Ðức Phật dạy: phải ở trên Ðịnh Vô Lậu quán xét để đẩy lui những chướng ngại pháp ấy ra khỏi thân, thọ, tâm, pháp của mình, thì gọi là ly dục, diệt ác pháp. Vừa ngăn dục vừa diệt dục, vừa ngăn ác vừa diệt ác pháp xong thì mới nhìn thấy được tâm mình thanh thản, an lạc và thanh tịnh. Tâm thanh thản, an lạc và thanh tịnh là thiền định, chứ đâu phải mình ngồi thiền, ức chế tâm cho hết vọng tưởng là nó thanh tịnh đâu? Cho nên bài kệ trong kinh Pháp Cú Ðức Phật dạy: Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý, Thị chư Phật pháp. Bài kệ này các nhà Ðại thừa tự phân ra làm hai vế: - Vế thứ nhất họ cho rằng: Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành là mình tu theo pháp thiện, nhờ pháp thiện mà mình diệt được được ác pháp, giữ gìn được thiện pháp. Do giữ gìn được thiện pháp mà chính mình bị dính mắc vào thiện pháp đó. Vì thế tâm ý của mình chưa thanh tịnh vì còn pháp thiện. Hai câu này họ cho đó là tu thiền thiền quán. - Vế thứ hai họ cho rằng: Tự tịnh kỳ ý là pháp môn thiền định nên mình phải tu một pháp khác hơn là pháp ngăn ác diệt ác pháp thì tâm mới được thanh tịnh. Vì hiểu như vậy các nhà Ðại Thừa mới chế ra một pháp khác để tu tập thiền định. Pháp khác đó là pháp giữ tâm để tâm mình không có niệm thiện niệm ác. Không có niệm thiện niệm ác thì tâm mới thanh tịnh. Qua kinh nghiệm tu hành của tôi thì bài kệ chỉ có một ý, chứ không thể chia làm hai ý được. Lưu ý: Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, nghĩa là: Các pháp ác không làm, nên làm các pháp thiện. Hai câu trên là chỉ pháp hành tức là gieo nhân thiện, diệt nhân ác. Câu dưới Tự tịnh kỳ ý là chỉ cho kết quả của hai câu pháp hành ở trên, có nghĩa là khi không làm các ác pháp và thường làm các pháp thiện thì tâm ý của mình tự nó thanh tịnh. Do mình sống trong các pháp thiện này thì cái ý của mình nó thanh tịnh. Bây giờ Thầy đặt lại vấn đề cho nó rõ ràng và dễ hiểu hơn, để thấu lý của bài kệ pháp hành này trong kinh Pháp Cú. Ðức Phật dạy Thập Thiện, tức là 10 điều lành. Chúng ta không nói đến cái thiện nhiều mà chỉ cô đọng, gom lại mang đầy đủ tính chất của gốc thiện theo như Ðức Phật đã dạy: Mười điều lành. Mười điều lành là gốc, từ đó phát sanh ra muôn vạn điều lành khác. Ví dụ: Mười điều thiện trên đây mà Thầy chỉ mới có tu được năm điều thiện, còn 5 điều thiện nữa chưa tu xong. 5 điều thiện chưa tu xong tức là còn 5 điều ác. 5 điều ác là đối tượng của 5 điều thiện này. Nếu Thầy chấp giữ năm điều thiện này để tu, tức là để diệt các đối tượng của nó là 5 điều ác. Và như vậy, Thầy còn bị kẹt trong năm điều thiện này, cho nên Thầy phải cố gắng tu năm điều này cho nó toàn thiện, cho nó không còn ác pháp nữa. Nếu nó còn ác pháp thì nó chưa phải là toàn thiện. Khi Thầy tu xong 5 điều thiện sau cùng này rồi, thì nó hết sạch các ác pháp, tức là tâm Thầy không còn có đối tượng đối đải của tâm thiện nữa, thì lúc bây giờ tâm thiện đó nó còn thiện nữa hay không hỡi quí vị? Còn có ác thì còn có thiện, lúc ác hết sạch thì thiện vẫn là thiện, nhưng vì không có ác nên chúng ta vẫn thấy không có thiện. Có phải vậy không quí vị? Cho nên nó không còn cái đối tượng đối đãi thì thiện ấy mới thật sự là thiện toàn diện. Thiện toàn diện thì tâm ý nó thanh tịnh. Nên kinh dạy: Tự tịnh kỳ ý. Phải không quí vị? Cái ý của mình nó thanh tịnh là do mình sống trong thiện pháp, toàn thiện, không còn một chút xíu các ác pháp. Còn bây giờ mình mới sống được phân nửa thiện còn phân nửa là ác. Còn có ác pháp là còn đối tượng của thiện nên thiện chưa toàn thiện, chưa trọn vẹn thiện thì còn kẹt trong pháp thiện. Nếu chúng ta kiến giải, tưởng giải ra bài kinh Pháp Cú này, phân làm hai vế. Và như vậy chúng ta đã làm lệch ý của Phật, do đó dẫn đến chúng ta tu hành sai lạc. Do hiểu sai lệch này chúng ta rơi vào thiền tưởng mà không biết. Thấy tướng tưởng mà cho là định tướng, cũng như gặp ma mà cho là Phật. Còn bây giờ chúng ta đang giữ thiện, ly ác pháp, nên tâm chưa toàn thiện. Tâm chưa toàn thiện thì tâm còn đang kẹt ở giữa cái thiện và ác. Vì thế tâm chúng ta chưa thanh tịnh. Thiền định của Ðạo Phật chính là tâm toàn thiện. Tâm toàn thiện là tâm định, chứ không phải thân định. Xin quí vị lưu ý đừng hiểu tâm định và thân định giống nhau. Vì thế Ðức Phật xác định cho chúng ta hiểu rõ: Tâm định trên thân, Thân định trên tâm là hai loại thiền định: 1/ Tâm định (Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý: kinh Pháp Cú). 2/ Thân định (Không thở ra thở vào, tâm trú vào thiền định: kinh Tương Ưng). Người ta kiến giải sai lệch câu kinh này, nên dùng pháp khác để tu tập cho nó thanh tịnh, bằng cách ức chế tâm của mình, không cho nó khởi niệm thiện niệm ác. Và khi niệm thiện niệm ác không khởi thì chắc chắn nó sẽ thanh tịnh chứ gì? Tu như vậy, sự thật không đúng nghĩa ở trong bài kệ của kinh Pháp Cú. Tu theo Ðạo Phật chúng ta phải hiểu rằng: tu là phải xả cái tâm, có nghĩa là ly dục ly ác pháp. Ðức Phật đã nói: Ta nói giới luật, tức là nói ly dục, ly ác pháp. Chỉ có người sống đúng giới luật thì mới ly dục, ly ác pháp được. Bây giờ Thầy lấy một ví du khác: như ngày ăn ba bữa cơm: sáng, trưa, chiều, thì thử hỏi Thầy có ly tham chưa? Nếu một người sống phá giới thì sẽ luận rằng: Tôi ăn tôi biết tôi ăn vậy chứ tôi đâu có cần nghĩ đến tham hay không tham? Ðó là lý luận suông của những nhà học giả. Nhưng thật sự khi sáng và chiều mà không ăn thì người ta cảm thấy muốn ăn, thèm ăn, cảm thấy đói. Và như vậy là không tập sống ly tham dục. Không tập sống ly tham dục thì làm sao gọi là ly dục. Còn muốn ăn, thèm ăn, còn đói bụng tức là còn tham dục. Một người ngày ăn 1 bữa, thì buổi sáng người ta ly tham được buổi sáng. Người ta không ăn buổi chiều thì người ta ly tham được buổi chiều. Vì thế người ta chỉ còn ăn để sống, trong một ngày chỉ có ăn vào buổi trưa mà thôi. Buổi trưa đôi lúc chúng ta thấy đồ ăn ngon mà chúng ta ráng ăn nhiều cho no căng thì đó là chúng ta vẫn chưa ly dục. Chưa ly dục ly ác pháp tức là chưa giải quyết tâm tham, sân, si. Cho nên ngon hay dỡ chúng ta chỉ ăn để sống mà thôi. Mặc dù ăn ngày 1 bữa nhưng còn tham, chứ đâu phải hết tham. Cho nên khi tâm đang còn tham ăn, Ðức Phật dạy phải quán thực phẩm bất tịnh, để sanh ra tâm nhàm chán. Nếu chúng ta quán thấy thực phẩm hoàn toàn bất tịnh, thì chúng ta ngán ngẫm và sợ hãi, chúng ta ít muốn tham ăn. Còn nếu chúng ta dùng tưởng quán thực phẩm bất tịnh, khi quán sâu quá thì chúng ta không muốn ăn do đó cơ thể chúng ta sẽ bị bịnh. Bởi vì không ăn thì cơ thể phải bệnh chứ gì? Nên khi quán thực phẩm bất tịnh đến mức độ vừa đủ để nhàm chán thì dừng lại, chứ không được quán đến ghê gớm, đến không muốn ăn thì sai. Cho nên Phật pháp mà không có người có kinh nghiệm tu hành thì chúng ta tu quán cũng vẫn sai. Quán đến mức độ chúng ta tưởng ra thực phẩm quá ghê gớm, là tự giết mình trước lúc thành đạo. Cũng như quán thân vô thường, quán đến mức độ thấy cái thân này vô thường hoàn toàn thật sự thì chừng đó mình cầm dao đâm mình mà không có chút sợ hãi. Thì đó là mình đã tu sai pháp Phật. Cũng như bây giờ Thầy lấy ví dụ: Một đống rác đang ở trước mặt các Phật tử, các Phật tử ý muốn hốt đống rác cho sạch, nhưng vì Thọ Bát Quan Trai nên không hốt rác. Không hốt đống rác tức là quí Phật tử đang bị ức chế tâm. Chỉ một hành động nhỏ như vậy là chúng ta đã tu sai. Pháp của Phật là pháp xả, chứ không phải pháp ức chế. Thấy đống rác muốn hốt mà nghĩ rằng mình là người tu thiền, chỉ biết có thiền chứ không khởi niệm đống rác, đó là bị ức chế tâm, không có xả. Trái lại một người muốn xả tâm thì ngay đó người ta đi hốt đống rác là xả tâm. Bởi vì tâm mình đã phóng ra đống rác, muốn xả niệm đó thì phải xả đống rác cho sạch. Xả xong, bây giờ tâm nhẹ nhàng, thoái mái. Cũng như khi mình ngồi thiền hai chân bị tê thì đó là bị chướng ngại pháp rồi. Nếu chúng ta nói còn tu 30 phút nữa mới hết giờ thiền, ta hãy ráng ngồi cho đúng giờ, là như vậy rõ ràng mình đã ức chế thân của mình. Pháp tu như vậy đối với Ðạo Phật là sai; cho nên ta hãy xả hai chân bị tê đi. Xả hai chân bị tê thì nó đem lại sự an lạc giải thoát bình thường cho ta chứ gì? Muốn chân hết tê, chúng ta tháo chân tréo ra và xoa bóp, rồi đứng dậy đi thì thấy hết tê liền, đó hoàn toàn là cách tu xả. Cái gì làm khổ chúng ta là chướng ngại pháp, là ác pháp. Ðạo Phật là đạo giải thoát ngay liền khi chúng ta tu theo pháp Tứ Niệm Xứ. Còn bây giờ chúng ta cứ ngồi ức chế thân tâm, làm cho thân tâm của chúng ta khổ đau bằng thế này hay bằng thế khác mà gọi là tu theo Phật Giáo thì quí vị đã tu sai lầm. Bây giờ quí vị ăn ngày ba bữa đã thành thói quen mà bắt buộc quí vị ăn ngày một bữa, tức là quí vị đã bị ức chế thân tâm rồi đó, quí vị sẽ bị bịnh và khổ đau. Ðức Phật dạy: Các cư sĩ muốn tu thì nên tu tập Thọ Bát Quan Trai 1 tháng chỉ 1 ngày. 1 ngày đó thật sự mình có ức chế thân tâm, nhưng chỉ ức chế thân tâm cho nó quen dần. Tập dần cho nó quen, chứ chưa tu tập gì hết mà vội xuất gia thì mình sẽ bị ức chế thân tâm trong giới luật. Và như vậy mình sẽ bị bệnh, không bao giờ mình tránh khỏi. Xuất gia tu hành để cầu giải thoát, cớ sao mình lại tạo cho mình thêm khổ, chứ có giải thoát gì đâu. Chỉ có một ngày Thọ Bát Quan Trai, mà chúng ta còn cảm thấy khổ thật. Ngày ăn có một bữa, ngồi dưới đất ăn, không được nghe hát, không trang điểm; các ham muốn của mình bây giờ bị dừng lại hết, không còn được ham muốn cái gì cả, cho nên nó rất khổ dù chỉ mới có một ngày Thọ Bát Quan Trai thôi. Rồi ta so sánh cuộc sống thế gian và cuộc sống trong ngày Thọ Bát Quan Trai thì thấy khổ, quá khổ. Nhưng sau ngày Thọ Bát Quan Trai, mình tư duy, suy nghĩ: sáng mình khỏi ăn, trưa mình mới ăn, rồi chiều tối mình cũng không ăn, mình thấy thực sự rảnh rang, vô sự, sung sướng thật, chứ không có khổ cực gì cả. Từ sự suy nghĩ đó mình mới thấy được sự giải thoát trong ngày Thọ Bát Quan Trai của Ðạo Phật. Cuộc sống ngoài thế gian hằng ngày bận rộn suy tư chuyện này, chuyện nọ; tính toán buôn bán ngày kia, ngày nọ; quá cực khổ, lao tâm, tổn trí. Ngày Thọ Bát Quan Trai mình bỏ xuống sạch, chỉ ôm bát đi xin ăn như Phật, thật là hạnh phúc. Trong lúc Thọ Bát Quan Trai, mỗi tâm niệm gì khởi lên, thì mình quán xét, đẩy nó lui hết, khiến cho tâm mình thanh thản, an lạc giải thoát. Như vậy là giải thoát thật sự phải không? Tại sao? Tham dục, tham ái cái này cái kia; tham nói chuyện này, chuyện kia đó là tâm phóng dật; do phóng dật tâm mới lăng xăng; tâm lăng xăng chúng ta mới có cảm thấy khổ. Như vậy từ chỗ tư duy mình mới thấy rõ và hiểu biết đây thật sự là con đường giải thoát. Có Thọ Bát Quan Trai tu tập một ngày thì mới thấy được sự giải thoát của ngày đó: thân và tâm của mình thanh thản, an lạc, vô sự. Cho nên mình thích thú và ham tu. Mình nghĩ rằng sau này Thọ Bát Quan Trai mình xin tu thêm một ngày nữa. Mình thọ rồi mình ước nguyện giải thoát và có sự giải thoát thật sự. Nhờ tu tập như vậy tâm không có động, không có ai làm động tâm mình được và không thấy mình có khởi niệm tham, sân, si, phiền não, bất toại nguyện gì trong ngày này hết. Ngày đó mình sống như Phật, mình làm như Phật, mình thấy tâm mình rất an ổn, từ đó mình suy tư và nói: "À! Ðúng rồi, sau này mình sẽ tập hai ngày, ba ngày liên tục". Bởi vì có thích tập tu, cảm thấy có thoái mái dễ chịu. Nếu mình không thích tu tập sẽ thấy khổ sở. Còn ép buộc tu tập thì nó không thích, nó không thích thì tâm bị ức chế, tâm bị ức chế thì sự tu tập sẽ dễ đổ vỡ. Cho nên mình càng tu mình càng thích, càng hăng hái tu thì tu đúng. Bởi vì tu hành là phải tìm thấy kết quả của sự giải thoát. Cho nên càng ngày càng sống đúng giới luật; sống đúng giới luật tâm càng ham thích, do đó không bao giờ phạm giới. Trái lại không có tu tập, không có rèn luyện đúng cách, mà cứ ôm giới giữ gìn, thì bị ức chế tâm. Ðến khi không còn giữ gìn được nữa, thì bắt đầu lén lút làm những chuyện không đúng giới luật. Ví dụ: Ăn ngày một bữa mà không tập Thọ Bát Quan Trai cho quen, ép mình vô tu, ăn ngày một bữa như những người tu lâu, đã thuần quen, thì mình chịu không nổi nên bắt đầu mình lén lút để lại bánh trái, ăn uống phi thời. Ăn uống phi thời là một tội lỗi rất lớn: tội đọa. Rồi lại thêm một cái tội nữa là tội ăn lén lút, đó là tội gian xảo dối trá không thật. Cho nên ở đây có một số người nói tôi cũng ăn cơm ngọ, chứ sự thật lại ăn phi thời. Trước mặt khác, sau lưng khác. Trước mặt với Phật tử thì nói là tôi ăn ngọ nhưng sau lưng không phải ăn ngọ. Ðó là điều tệ hại trong Phật Giáo hiện nay. Chúng ta ăn ngọ thì biết đó là lối sống của các bậc Thánh, lối sống như vậy gọi là Thánh hạnh, hạnh của một bậc Thánh Tăng. Cho nên chúng ta sống đúng hạnh đó, trước mặt cũng như sau lưng không bao giờ làm sai, có nghĩa là ngày một bữa không ăn uống lặt vặt phi thời. Những giới luật của Phật có mục đích dạy chúng ta cách sống phạm hạnh làm một bậc Thánh, và cách sống làm một con người có đạo đức. Thầy thấy cách sống làm một con người mà Ðức Phật đã dạy cho người cư sĩ rất nhiều giới, chứ không phải có 5 giới của bậc Thánh. Năm giới này người tu sĩ giữ gìn còn chưa trọn vẹn huống là cư sĩ. Thầy, Tổ dạy 5 giới quá cao - vì đó là giới đức làm Thánh. Năm giới của người cư sĩ là năm giới đức Thánh. Năm giới đức này đâu phải đức hạnh tầm thường. Hầu hết quí cư sĩ đều thọ năm giới, nhưng chưa chắc ai đã giữ trọn 5 giới này. Nên bây giờ Thầy dạy những giới đức làm người cho người cư sĩ là phải giữ gìn 100 giới chúng học của Phật. Những giới đức cho người cư sĩ gồm có như: phải giữ gìn vệ sinh, một nắm rác không được ném ngoài đường hoặc ném vào chỗ bụi cây hoặc ném trên bãi cỏ vì sẽ làm cho sự sống trên đám cỏ khi bị rác đè thì lá bị úa vàng chết đi. Ði đại tiểu tiện, khạc nhổ phải có nơi có chốn. Khi đi đại tiểu tiện có nơi có chốn, đó là đạo đức vệ sinh mà cũng là đạo đức lòng hiếu sinh, thương sự sống của loài vật khác. Không giữ vệ sinh chung là người thiếu đạo đức. Bởi vì cùng với sự sống của chúng ta, mọi vật đều sống trong môi trường sống chung. Nếu không có đạo đức hiếu sinh và đạo đức vệ sinh thì chúng ta sẽ hủy diệt sự sống chung của nhau trên hành tinh này. Tại sao chúng ta, vì sự sống của mình mà hại đến sự sống của các loài vật khác. Lòng từ bi của chúng ta đâu?

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét