115-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT
PHÁP TẬP 3: DÙNG ÁI NGỮ NHƯ THẾ NÀO ÐÚNG?
Tại sao Thầy lại gay gắt với Thiền Ðông Ðộ và kinh sách Ðại Thừa mà không dùng ái ngữ với những giáo pháp này? Vì Thiền Ðông Ðộ và kinh sách Ðại Thừa đã giết bao nhiêu thế hệ tín đồ Phật Giáo, biến Phật Giáo thành thần giáo ngoại đạo, thay đổi giáo pháp Phật Giáo thành những giáo pháp mê tín, trừu tượng, ảo giác, v.v... Những giáo pháp này còn hù dọa, lừa đảo, quyến rũ cám dỗ, v.v... tín đồ. Trong đời Thầy đã chứng kiến biết bao nhiêu Thầy Tổ phải chịu chết trong đau khổ với những pháp môn này. Xưa Ðức Thế Tôn hoàn toàn bác sạch sáu mươi hai luận thuyết của Ngoại Ðạo, Ngài mạnh dạn nói thẳng chẳng hề biết sợ lục sư ngoại đạo là gì. Thậm chí thế giới siêu hình mà các tôn giáo đều có thì Ðức Phật đã mạnh dạn xác định không có, đó chỉ là thế giới tưởng tri. Mà trong thời Ðức Phật đâu phải dễ nói thế giới siêu hình không có. Con người thời đó với sự hiểu biết về khoa học còn thấp kém, đời sống còn lạc hậu. Mãi ngay đến thế kỷ 13, ông Galilé nói một sự thật "Quả đất tròn" mà người ta còn đưa ông lên đoạn đầu đài xử tử. Trong thời của chúng ta là thời đại văn minh khoa học nên Thầy mạnh dạn nói rằng thế giới siêu hình không có. Nói thế giới siêu hình không có là làm một điều chướng ngại rất lớn không những cho các nhà Ðại Thừa, Thiền Tông mà còn chướng ngại tất cả các tôn giáo khác trên hành tinh này. Xưa đức Phật đã nói siêu hình là thế giới tưởng tri, ngắn gọn, vì thế ngoại đạo dễ che lấp lời nói này. Còn bây giờ Thầy vạch trần ra hết tất cả những sự lừa đảo, phi đạo đức của Ðại Thừa và Thiền Tông cho mọi người thấu rõ sự gian xảo thì người ta bảo Thầy là người không có ái ngữ. Thầy xin chấp nhận mình không ái ngữ với Ðại Thừa và Thiền Tông. Mà Thầy có ái ngữ với những người không kiến chấp.
• Nếu Thầy có ái ngữ với những giáo pháp này thì những giáo pháp này sẽ giết Phật Giáo và giết hết những tu sĩ Phật Giáo sau này.
• Nếu không nói thẳng nói thật thì ai biết Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ là sai, là phi đạo đức, là không phải của Phật Giáo, là của Bà La Môn Giáo.
• Nếu không nói thẳng nói thật thì ai biết thế giới siêu hình là không có.
• Nếu không nói thẳng nói thật thì ai biết được Phật Giáo có một nền đạo đức nhân bản - không làm khổ mình khổ người.
• Nếu không nói thẳng nói thật thì ai biết được những âm mưu thâm độc diệt Phật Giáo của ngoại đạo.
• Nếu không nói thẳng nói thật thì ai biết được những tu sĩ ẩn nương cửa Phật để kinh doanh làm giàu trên xương máu của đồng bào Phật tử.
• Nếu không nói thẳng nói thật thì ai biết được những tu sĩ tu danh, tu lợi đang lợi dụng mồ hôi nước mắt của đồng bào Phật tử để ăn trên ngồi trước.
• Nếu không nói thẳng nói thật thì làm sao làm sống lại Phật Giáo, thì làm sao làm sống lại nền đạo đức của Phật Giáo.
• Nếu không nói thẳng nói thật thì làm sao dẹp sạch những nạn mê tín lạc hậu, làm hao tốn tiền của của đồng bào Phật tử một cách nhãm nhí ...
Vì thế Thầy phải nói thẳng, nói thật, nói mạnh
chứ không thể nào ái ngữ với Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ được. Người tu chứng đạo,
biết sử dụng ngôn ngữ, đối với người nào phải dùng ái ngữ, đối với người nào
không dùng ái ngữ. Cũng như người cầm pháp luật là phải biết phạt, trị tội người
nào; biết tha và biết giảm tội cho người nào. Lúc nào dùng ái ngữ, ngọt ngào an
ủi; lúc nào nộ nạt tra tấn đánh đập. Người mới phạm tội lần đầu thì tha thứ, cảnh
cáo, giáo dục họ để họ sửa lại những sự sai lầm. Còn người nào ba lần năm lượt
không chịu sửa đổi thì phải cưởng bức họ cải tạo, giam giữ họ bằng cách này, bằng
cách khác. Cho nên không phải lúc nào chúng ta cũng dùng ái ngữ. Xưa Ðức Phật
cũng dùng ngôn ngữ không ái ngữ: "ông ngu si, ông điên đảo". Như vậy
Ðức Phật không chứng đạo sao? Nếu họ bảo rằng: người tu chứng lúc nào cũng dùng
ái ngữ. Dùng ái ngữ theo cách như vậy là người a dua, nịnh bợ, không dám nói thẳng
nói thật. Người chứng đạo như vậy là người nhác gan sợ hãi, là người hèn nhác.
Một người ác, một quỷ vương, một ác thú mà chúng ta dùng ái ngữ thì chúng có
tha cho chúng ta không? Cho nên chúng ta phải là người sáng suốt, người trí tuệ
mới biết dùng ái ngữ, và phải biết sử dụng ái ngữ với những người nào và không
sử dụng ái ngữ đối với những người nào vào trường hợp nào. Chúng ta cần phải diệt
cho sạch những ác pháp đó để đem lại sự an vui cho mọi người. Ðó là cách thức sử
sự của một người trí tuệ, của một người tu chứng. Dùng lý luận "ái ngữ"
hay "đọa địa ngục" để bịt miệng mọi người, khiến họ không dám nói thẳng
sự sai trái trong Phật Giáo hiện nay là một điều tồi tệ nhất. Lối lý luận đó nhằm
mục đích duy trì, nuôi dưỡng một giáo lý không chân chánh để tiếp tục biến Phật
Giáo thành ma giáo. Giả thử hiện giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện dạy đạo
lại, bảo rằng Ðại Thừa là giáo pháp mê tín, phi đạo đức của ngoại đạo,... Thiền
Ðông Ðộ là thiền tưởng, không đúng thiền của Phật,... thì người ta vẫn chê đức
Phật Thích Ca Mâu Ni lỗi thời và không ái ngữ. Những lý luận che đậy, bưng bít,
dụ dỗ, hù dọa trong sách Ðại Thừa đầy dẫy. Sau khi tu hành thành đạo, Ðức Phật
đã tự xưng mình thành chánh đẳng, chánh giác thì chẳng ai dám nói: "Còn thấy
tu chứng là chưa chứng" Còn chúng ta ngày nay ai nói chứng quả A la Hán,
hoặc thành chánh giác, thì người ta bắt chước trong kinh sách Ðại thừa nói: còn
thấy chứng là chưa chứng. Trong kinh sách Ðại Thừa đã cố tâm chuẩn bị sẳn tất cả
mọi lý lẻ lập luận hồ đồ như thế để bịt miệng và lừa đảo mọi người. Ví dụ:
Không lẽ tâm tôi hết tham sân si mà tôi không biết sao? Không lẽ tôi có Tam
Minh mà không biết sao? Không lẽ tôi nhập định, làm chủ sự sống chết mà không
biết sao? Không lẽ ngày tôi ăn một bữa mà không biết sao, phải không? Tất cả những
kết quả tu tập này tôi đều biết rất rõ. Biết rất rõ như thế không lẻ tôi không
chứng hay sao? Còn thấy mình chứng là chưa chứng, đó là lối lừa đảo để cho mọi
người không nhận ra mình bị lối lập luận lừa đảo. Chứng hay không chứng thì người
tu hành phải biết. Còn không dám nói mình tu chứng, tức là chính mình tu chưa
chứng mà dùng câu soạn sẳn trên ở trong kinh sách Ðại Thừa để xảo trá che đậy,
bưng bít và lừa đảo mọi người hòng sống trên mồ hôi nước mắt của Phật tử, làm
giàu trên xương máu của người khác. Tội lừa đảo người khác là tội rất nặng. Còn
chúng tôi nói thật rõ ràng để mọi người hiểu biết Phật Giáo có tu được hay
không và đem lại một nền đạo đức nhân bản cho họ sống, đem lại sự an vui, hạnh
phúc cho mọi người. Tôi chỉ là một tu sĩ thiểu dục tri túc ba y một bát, sống đời
sống trắng bạch như võ óc, không hề tham, sân, si; không hề có những vật dụng đầy
đủ tiện nghi như người đời. Thầy nói Thầy làm chủ được hơi thở thì họ đâu có
tin Thầy. Họ bảo thầy phải tịnh chỉ hơi thở cho họ xem thì họ mới tin, phải
không? Nhưng khi Thầy thực hiện tịnh chỉ hơi thở thì người ta theo Thầy tu hành
rất đông để tịnh chỉ hơi thở chứ không phải để học đạo đức, phải không? Nếu bây
giờ người ta thấy Thầy dùng thần thông bay lên trời, phóng hào quang, thì người
ta sẽ theo Thầy tu hành rất đông và cúng dường cho Thầy rất nhiều tiền, chứ
không phải họ tu theo Thầy để tìm chỗ tâm bất động giải thoát. Hầu hết hiện giờ
người ta tu hành là nhắm vào mục đích thần thông, danh, lợi,... nên khi khép
vào giới luật thì nhìn lại không còn ai dám tu theo Phật Giáo. Tu sĩ hiện giờ gần
như không có người nào sống đúng giới luật của Phật. Thầy nghĩ rằng: Lấy thật dạy
thật, không có lấy giả (phương tiện) mà dạy thật được. Vì thế thầy sống đúng giới
luật đức hạnh của bậc Thánh Tăng, thì Thầy dạy người đạo đức. Còn nếu đem thần
thông dụ dỗ để họ theo mình tu hành rồi dạy họ đạo đức thì không bao giờ dạy được,
vì tâm họ ham mê thần thông chứ không ham mê đạo đức. Muốn có thần thông thì phải
có đạo đức; chính đạo đức mới xác định thần thông chân chánh. Thầy xin bảo đảm
điều này: Chỉ có đạo đức mới đi đến sự giải thoát, còn thần thông chỉ là một
trò ảo thuật chẳng có ích lợi gì cho đời sống con người. Chỉ có đạo đức mới đem
lại lợi ích cho mình cho người. Nếu Thầy không nổ lực, không nhiệt huyết, không
có lời sách tấn của Hoà Thượng Thanh Từ thì chắc chắn sẽ không bao giờ tu được
kết quả như thế này. Bởi vì phải có đủ duyên mới hợp thành. Hòa Thượng Thanh Từ
sách tấn cũng là một nguyên nhân. Thầy thích sống trong giới luật Phật cũng là
một nhân duyên đời trước. Sống trong giới luật không hề vi phạm, thấy ai sống
phạm giới là Thầy không bằng lòng. Ðến chùa nào ăn ba bốn bữa là Thầy không chấp
nhận. Tại sao vậy? Tại vì Thầy đã huân tạo thành nghiệp thanh tịnh của giới luật.
Nhờ đức giới, cuối cùng duyên may giúp Thầy đi vào hướng giáo pháp Nguyên Thủy.
Nhưng không theo các sư Nguyên Thủy mà tự thực hiện được đến làm chủ sanh tử.
Nói thời đức Phật có 1.250 vị tỳ kheo đều tu chứng quả A La Hán. Ðiều này không
đúng. Chỉ có một số người ít, chứ không phải tất cả 1.250 vị chứng quả A La Hán
hết. Trong kinh Ðức Phật xác định: "Một hôm có người hỏi Ðức Phật: Trong
500 vị Tỳ kheo đang theo Phật tu hành có chứng quả hết chưa? Ðức Phật đáp: Có
90 người chứng Tam Minh; có 90 người chứng đạt thiền định, còn lại bao nhiêu đều
chứng giới luật". Như vậy thì đâu thể nào nói tất cả đều chứng quả A La Hán
được. Từ ngày Phật nhập diệt gần 2.500 năm trước đến bây giờ không có một người
nào làm sống lại giáo pháp của Phật chỉ vì chúng sanh không đủ duyên và không
có lòng tha thiết với đạo Phật, không mong muốn làm sống lại đạo Phật, để làm sống
lại nền đạo đức nhân bản của Ðạo Phật. Vì vậy cho đến giờ này cũng vẩn chưa có
người xuất hiện cứu lấy đạo Phật. Và cũng chỉ vì không ai dám nói thẳng nói thật,
nói mạnh vì sợ người khác cho mình không có ái ngữ. Tóm lại người tu chứng là
người biết dùng ái ngữ đúng lúc, đúng thời, đúng pháp, đúng người, chứ không phải
lúc nào cũng dùng ái ngữ để trở thành những người vô minh, không biết sai đúng,
chỉ còn biết a dua, nịnh bợ, hèn nhác, ve vản vuốt đuôi để được gọi là "ái
ngữ" dung hợp theo kiểu hòa đồng tôn giáo. Lời nói thẳng nói mạnh của Thầy
như những nhát búa chém mạnh vào những tà kiến của Ðại Thừa và Thiền Tông, khiến
cho ai kiến chấp nó, thì như bị những nhát búa này chém thẳng vào đầu, nên phải
la hét kêu gào trước khi tà kiến đó bị chết.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét