103-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT
PHÁP TẬP 2: TÂM NGUYỆN CHÁNH TÂM/ 3
"Sáu căn không dính mắc với sáu trần"
có nghĩa là làm cho ý thức được thanh tịnh; làm cho ý thức được thanh tịnh có
nghĩa là cho không khởi ra niệm phân biệt, và như thế gọi là sống với chân tâm
hay cũng được gọi là sống với Phật tính của mình. Nhưng chúng ta đều đã biết
con người được sanh ra là do thân ngủ ấm (uẩn): Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Thân ngủ ấm (uẩn) này thông qua với lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà tiếp
xúc với ngoại cảnh tức là sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi thân
ngủ ấm còn thì tính nghe, tính biết, tính thấy,... còn tồn tại. Khi chúng ta bị
chết, thân ngủ ấm tan hoại, liệu tính nghe tính biết, tính thấy có còn tồn tại
hay không? Theo Ðạo Phật thì khi con người chết thức uẩn tan hoại theo, bởi vì
cái thân ngủ ấm này được cấu thành bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, khi sắc đã
tan hoại, các duyên kia cũng vì thế mà tan hoại, lúc đó chỉ còn có nghiệp lực
là những thói quen tạo tác của chúng sanh, để thọ quả báo tái sanh luân hồi. Vậy
khi nhận được Chân Tâm hay Phật tính của mình rồi, suốt ngày luôn sống với nó, có
thể tịnh hóa thân tâm hướng đến giác ngộ giải thoát được không? Chúng tôi đã
tìm hiểu kỷ về kinh Nguyên Thủy, có thể trả lời chắc chắn là không thể được. Bởi
vì nếu chỉ sống và tu tập sao cho sáu căn không dính mắc với sáu trần, tức là sống
được với ý thức thanh tịnh thì vẫn là còn nằm trong phạm vi ngăn che của ngủ ấm.
Nếu suốt ngày luôn sống với cái hằng giác biết rõ mình, để trí tuệ phát sinh
thì tuệ đó chỉ là tưởng tuệ, và như vậy thì làm sao có thể giải thoát cho được.
Trong kinh Ðại Phương Quảng, số 43, Trung Bộ Kinh, tập 1 có nói: "Này Hiền
giả ý thức thanh tịnh, không liên hệ với năm căn có thể đưa đến hư không vô
biên xứ, hư không là vô biên, có thể đưa đến thức vô biên xứ, thức là vô biên,
có thể đưa đến vô sở hữu xứ không có vật gì." Qua bài dạy trên đây của
kinh Nguyên Thủy có thể nhận xét: Thiền Tông lấy Phật tính để tu tập không đưa
con người đến giác ngộ giải thoát mà chỉ đưa con người vào trạng thái hư vô, trạng
thái này Thiền Tông gọi là "phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu."
Với cách tu như vậy tham, sân, si không thể diệt trừ tận gốc. Vì sao thế? Xin
thưa, đây là pháp tu ức chế tâm, không phải là pháp tu xả tâm của Ðạo Phật.
Pháp tu này ví như cốc nước bị vẩn đục không được lọc, để lâu thì nó tạm lắng,
nếu khuấy động nước thì nó lại bị vẩn đục như cũ (tham, sân, si vẫn còn). Còn
thiền xả tâm dục như cốc nước bị vẩn đục đã được lọc cẩn thận, trở thành nước
tinh khiết, dù có bị khuấy động, nước ở trong cốc vẫn là nước tinh khiết, không
còn bị cấu uế nữa. Pháp tu của Nguyên Thuỷ là ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng
trưởng thiện. Dùng Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh, trên thân quán thân hành tướng nội
và ngoại, trên thọ quán thọ, trên tâm quán tâm, trên pháp quán pháp để khắc phục
và chế ngự mọi tham ưu ở đời. Như vậy hành giả tu tập theo Nguyên Thủy, áp dụng
đúng pháp, mọi cấu uế của tâm sẽ được tiêu trừ. Ở đây thiện pháp dụ như cái lọc
nườc, ác pháp dụ cho những vẫn đục, nước trong tinh khiết dụ cho tâm thanh tịnh
(ly dục ly ác pháp). Khi sống bằng thiện pháp, đẩy lùi ác pháp trên tứ niệm xứ
(thân, thọ, tâm, pháp) làm cho thân tâm trở nên thanh thản, an lạc và giải
thoát. Ðó là thiền xả tâm của Nguyên Thủy. Có hành như vậy mới tịnh hóa thân
tâm hướng đến giác ngộ và giải thoát. Theo lý Duyên Sanh, 12 nhân duyên là thế
giới quan của Ðạo Phật đã xác định. Vô minh duyên với hành, hành duyên với thức,
thức duyên với danh sắc, danh sắc duyên với lục nhập, lục nhập duyên với xúc,
xúc duyên với thọ, thọ duyên với ái, ái duyên với thủ, thủ duyên với hữu, hữu
duyên với sanh, sanh duyên với già, chết, sầu, bi khổ, não. Như vậy 12 nhân
duyên được hình thành là toàn bộ thế giới khổ đau hiện bày. Nếu vô minh diệt sẽ
dẩn đến hành diệt, thức diệt... sầu bi khổ não diệt, thế giới khổ đau chấm dứt.
Theo lý duyên sinh duyên khởi thì cái này có, cái kia có; cái này diệt, cái kia
diệt. Có học giả Ðại Thứa đã chứng minh Nguyên Thủy và Ðại Thừa giống nhau:
Nguyên Thủy trong pháp tu dạy quán thập nhị nhân duyên (lối tu của những vị
Duyên Giác) gồm có quán hữu duyên và quán hoàn diệt. Trong pháp quán hoàn diệt
lại có hai cách: Cách 1 : Diệt căn bản vô minh tức là quán chiếu thể các pháp đều
là không, để diệt trừ vô minh và các hành. Theo Ðại Thừa là dùng trí tuệ quán
chiếu (Bát Nhã Tâm kinh dạy quán chiếu kiến ngủ uẩn giai không) cũng để dẹp trừ
vô minh và các hành. Cách 2 : Diệt chi mạc vô minh tức là phá trừ vô minh ngọn
ngành (tức là diệt trừ ái, thủ, hữu). Pháp này dạy dùng lý lẽ để thấy các pháp
là do nhân duyên hợp mà có chứ không có thật (tức là không có hữu). Vì không có
thật nên không tham ái, (không có ái) khi ba cái nhân (ái, thủ, hữu) không có
thì sẽ không có cái quả (sanh, lão, bệnh, tử). Hoặc quán thấy do tham ái (do ái
mà tạo ra các nghiệp) tức là thủ do nghiệp mà bị sanh tử luân hồi. Từ đó muốn
chấm dứt sanh tử luân hồi thì phải diệt trừ ái, thủ, hữu. Trong nhà Thiền dạy
hành giả "không kẹt hai bên, hay đối cảnh vô tâm"; khi tâm không kẹt,
không dính thì không có ái nhiễm; vì không có ái nhiễm nên không có thủ hữu.
Nên chư Tổ dạy người tu khi tiếp duyên xúc cảnh thì "vô tâm" cũng là
để diệt trừ ái, thủ, hữu để an lạc giải thoát ngay đó. Kính thư quí bạn! Các
nhà Ðại Thừa, Thiền Tông và nhiều học giả không có kinh nghiệm tu chứng, nên
thuyết giảng 12 nhân duyên đã không triển khai nổi được pháp hành để biết phải
chọn duyên nào tu tập, mới chặt phá được vô minh. Vì thế bằng suy luận tưởng giải,
họ sáng tạo ra pháp tu "quán chiếu" hoặc đối cảnh vô tâm, đó chỉ là
pháp tưởng và lý luận suông. Ðối với chánh pháp của Ðạo Phật, muốn phá được vô
minh phải bắt đầu từ duyên sanh, tức là sanh y, có nghĩa là phải chặt phá từ những
cái mà cuộc sống nương tựa vào và bị trói buộc để mà giải thoát. Pháp tu này
không dạy "quán chiếu thể của các pháp là không" hay dùng lý lẽ để thấy
các pháp do nhân duyên mà có, hay đối cảnh vô tâm, mà Ðức Phật dạy phải dùng đức
hạnh giới luật (giới bổn, giới hạnh, giới đức, giới hành, và giới tuệ) dể diệt
trừ và đoạn tận sanh y. Nhờ đoạn tận sanh y mà hơi thở và các hành trong thân
cũng phải đoạn diệt, khi hành diệt dẫn đến thức diệt, khi hành diệt dẫn đến vô
minh diệt thì minh khởi. Ðó là lúc hành giả hướng tâm để chứng ngộ vô thượng
trí, đạt được cứu cánh viên mãn, đúng như lời Ðức Phật đã dạy: "Sanh có tận
phạm hạnh mới thành". Vì thế, người hành giả muốn tịnh hóa thân tâm để hướng
đến giác ngộ giải thoát, thì phải sống trọn vẹn trong giới luật, không hề vi phạm
một lỗi nhỏ thì mới đạt được đạo giải thoát. Như ngày xưa, thuở Ðức Phật còn tại
thế có Ngài Ưu Ba Ly là người trì giới bậc nhất, đã được đắc quả Alahan mặc dù
xuất thân từ một giai cấp hèn hạ dốt nát trong xã hội. Cuộc đời của Ðức Phật và
những vị Thánh Tăng là tấm gương sáng vì cuộc sống đức hạnh giới luật giải
thoát. Các Ngài đã cắt râu tóc mặc áo cà sa, sống thiểu dục ba y một bát, không
nhà cửa tài sản thân quyến, ngày một bữa khất thực nuôi thân, lấy gốc cây hang
đá làm nhà, lấy thảm cỏ làm nơi nằm nghỉ. Vậy mà gương hạnh giải thoát của các
Ngài vẫn được nhiều người mến mộ, học hỏi và làm theo. Ðến hôm nay đã hơn 25 thế
kỷ trôi qua kể từ khi Ðức Phật nhập diệt và các vị Thánh đệ tử cũng nhập diệt,
ngoảnh lại nhìn ngôi nhà Phật Giáo Vệt Nam cũng như thế giới, những bậc Thánh
Tăng giới luật quá ít, tăng thượng mạn thế tục hóa thì nhiều. Tăng sĩ có tài sản
như người ngoài đời, vào chùa chưa chắc đã nghèo hơn ai, pháp hành không phải của
Ðạo Phật. Ðiều đó thật là chua xót. Bởi vì đức hạnh giới luật của những người
tu sĩ ngày nay đã không còn là đức hạnh giới luật của Ðức Phật nữa. Mọi người
đã đua nhau chà đạp giới, xé vụn giới để chạy theo danh lợi của người thế gian.
Như vậy, con đường tu hành chỉ còn là danh nghĩa. Kính thưa quí bạn! Như ở đầu
bài tâm nguyện này chúng tôi đã viết là để mạn đàm cùng với các bạn về mặt nhận
thức chân lý của Phật giáo. Truớc hết, chúng tôi xin cảm ơn các bạn đã tạo
duyên để chúng tôi được trao đổi mạn đàm về đạo pháp với mọi người tự hiểu rõ
những gì đúng sai đang xẩy ra trong ngôi nhà Phật giáo hiện nay. Chúng tôi nhất
trí với nhận định của một bạn khi viết; "Bởi vì trong Phật Pháp, khi tâm
mình tương ưng với tâm Phật, tâm Tổ thì sẽ quán triệt được lời Phật, ý Tổ. Còn
nếu công phu tu hành chưa tới đó, hay còn kẹt thì tâm chưa tương ưng hay chưa tỏ
ngộ. khi đó, dù có suy nghĩ, lý giải cách nào đi nữa thì cũng không thể thâm nhập
hiểu đúng lời các Ngài..." Kính thưa các bạn! Với ý kiến trên chúng tôi
nghĩ bạn đó cũng chưa hiểu hết được về con đường tu tập của Ðạo Phật vì bạn đó
chưa chứng minh được sự giải thoát của bạn, tức là bạn đó đang tưởng giải, chứ
chưa làm chủ sanh, già bệnh, chết như Phật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét