102-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT
PHÁP TẬP 2: TÂM NGUYỆN CHÁNH TÂM/ 2
" Pháp hành của Phật Giáo Nguyên Thủy là
gì? Là Bát Chánh Ðạo đã được Ðức Phật xác lập, mà trong Bát Chánh Ðạo đã bao
hàm cả Giới Ðịnh Tuệ. Từ các pháp môn cốt lõi này triển khai ra thêm để hành giả
tu tập thêm nhiều các pháp hành khác hổ trợ cho đạo giải thoát. Ðó là 37 Phẩm
Trợ Ðạo, giúp cho đạo quả được chóng viên mãn. Bát Chánh Ðạo là Ðạo Ðế, là chân
lý đã được Ðức Phật tuyên bố trong Tứ Diệu Ðế và Ngài đã đem giảng lại cho các
đệ tử của Ngài từ lúc Ngài thành đạo cho đến khi Ngài nhập diệt. Các đệ tử của
Ngài cững nương tựa vào đó mà tu tập chứng ngộ được chân lý, đạt được sự giải
thoát. Bát Chánh Ðạo gồm có: Chánh Kiến. Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh. Ðó là tám phương thức tu tập
để hành giả tu sửa thân tâm. Chỉ có tu tập đúng với Bát Chánh Ðạo thì hành giả
mới tịnh hóa thân tâm hướng đến giác ngộ giải thoát ra khỏi khổ đau và sanh tử
luân hồi. Phật tử chúng ta ngày nay không có người nào được hướng dẩn pháp hành
của Bát Chánh Ðạo và hiểu biết ý nghĩa thực tiển của Bát Chánh Ðạo, vì thế ít
người có ý thức một cách nghiêm túc để hiểu và tu tập theo Bát Chánh Ðạo, sống
trọn vẹn cùng với Bát Chánh Ðạo. Phật tử tu tập Ðạo Phật ngày nay, nếu ham tu
phước hữu lậu thì cầu tha lực để về với Phật A Di Ðà, người ham mê thần thông
phép lạ thì tim đến với Mật Tông, người muốn tu tắt cho nhanh (đốn tu) thì tìm
đến với Thiền Tông để "kiến tánh thành Phật". Theo chúng tôi nhận xét
các pháp môn này tu tập đều bỏ qua Bát Chánh Ðạo. Mà khi đã không lấy Bát Chánh
Ðạo và Giới, Ðịnh, Tuệ làm nòng cốt, đều không có khả năng hướng dẩn con người
thoát khỏi khổ đau và sanh tử luân hồi. Ðây là chân lý chắc chật, không cần phải
bàn luận. Kính thưa quí bạn! Ðại Thừa được chia ra làm nhiều tông phái: Tịnh Ðộ
Tông, Thiền Tông, Mật Tông hẳn các bạn cũng phải công nhận là do xuất hiện quá
nhiều kiến giải và do cách thức tu tập khác nhau mà thành lập tông phái. Theo
chúng tôi, các pháp môn này đều không lấy Bát Chánh Ðạo làm nòng cốt, vậy các
pháp môn này có còn "cứu cánh là tịnh hóa thân tâm, hướng đến giác ngộ và
giải thoát" như họ đã xác quyết không? Họ chỉ xác quyết bằng ngôn ngữ mà
hành động giác ngộ và giải thoát của họ chưa chứng minh được. Nếu quả thực lời
nói và hành động của họ nhất quán hướng đến giác ngộ và giải thoát thì chúng
tôi sẽ tin theo ngay. Nhưng Tịnh Ðộ Tông xây dựng thế giới tưởng là Tây Phương
Cực Lạc cho nên đã lấy sắc tưởng làm cứu cánh, chuyên cúng bái tụng niệm, cầu
an, cầu siêu, xin xăm bói quẻ,... đã biến Phật Giáo thành một tôn giáo mê tín và
thần quyền. Mật Tông ham mê phép lạ, chuyên luyện bùa chú để chữa bệnh hay yểm
quỷ trừ ma như một thầy phù thủy, không xây dựng thế giới Tây Phương Cực Lạc
như Tịnh Ðộ Tông, cũng không kiến tánh thành Phật như Thiền Tông, vậy thì lấy
gì để tịnh hóa thân tâm hướng đến giác ngộ giải thoát đây? Còn đối với Thiền
Tông thì sao? Như họ đã nói kiến tánh rồi khởi tu (vì kiến tánh chỉ mới là ngộ
trên lý mà thôi), còn cần phải hành cho đến bao giờ hành giả tương ưng thì mới
thật chứng ngộ. Mà hành như thế nào? Họ nói người mới tập phải hành thiền để
chuyển hóa cái tâm lăng xăng đầy vọng tưởng điên đảo đưa nó về với nhất niệm
nên mới mượn tiếng niệm Phật, niệm hơi thở (qua pháp môn sổ tức) hay mượn câu
thoại đầu để nhiếp phục tâm. Nhưng với người căn cơ bén nhạy, túc duyên nhiều đời
thì họ đi thẳng vào cứu cánh là sống với tâm vô niệm, và quan sát theo dỏi tâm.
Khi tâm đã an tịnh rồi thì sống với tâm thể an nhiên thanh tịnh đó. Khi có vọng
tưởng dấy khởi thì nhận biết rõ không theo, chứ nào có đè nén kềm vọng gì, không
như họ tưởng. Khi nhận được chân tâm của mình rồi thì suốt ngày luôn sống với
nó là cái hằng giác biết rõ mình, từ đó trí tuệ phát sinh, khi đối duyên xúc cảnh
mọi vọng niệm khởi lên đều nhận biết rõ ràng giả huyễn hay thiện ác nên tâm vẫn
an nhiên thanh tịnh không còn vướng mắc...". Kính thưa quí bạn! Lý của Thiền
Tông dễ chinh phục người nghe (nhất là người có trí thức mà chưa hiểu biết về
những chánh pháp của Ðức Phật) vì thế không những Thiền đã phát triển ở châu Á
mà ngày nay, các nước phương Tây cũng đang hướng tìm về Thiền và tu tập Thiền.
Bởi vì cách thức tu tập của Thiền Tông không mang màu sắc mê tín như Tịnh Ðộ,
có dáng vẻ tự lực tu hành (ngồi tọa thiền) như thời Ðức Phật con tại thế. Do vậy,
Thiền Tông rất được nhiều người mến mộ. Khi những năm 1986 và 1987, kinh sách
Phật Giáo được in ấn ở miền Nam được mang ra miền Bắc, cũng là lúc làn gió Thiền
Tông mang đến cho những Phật tử miền Bắc một sức sống mới, thổi bùng lên niềm
tin ở sự giải thoát của mọi người. Chúng tôi đã say sưa tìm đọc và miệt mài tu
tập, có lúc trạng thái yên lặng như hoà mình vào vũ trụ; có khi tu thiền xong,
lúc xả thiền nghe thấy trong đầu như có tiếng pháo nổ, hoặc có khi cảm giác người
nhẹ lâng lâng như không có thân bay bổng lên, với những tiếng gió thổi ù ù ở
bên tai. Cho rằng thiền đang có tiến bộ nên càng ham đọc sách Thiền và tu Thiền
để mong có ngày triệt ngộ. Sau một thời gian tu học về Ðại Thừa và Thiền Tông,
chúng tôi có thể đối đáp với mọi người về lý Thiền lý Ðạo mau lẹ, ứng đối trôi
chảy, thậm chí còn làm được rất nhiều bài thơ Thiền, chẳng hạn khi kiến tánh khởi
tu, chúng tôi đã làm bài thơ: Ðạo ở rất gần, đạo chẳng xa. Ðạo là tự tính ở
trong ta. Tìm đạo bên ngoài, tìm chẳng thấy. Quay mở vào trong đạo sáng ra. Khi
đã nhận được chân tâm của mình rồi thì chúng tôi đã suốt ngày luôn sống với nó
là cái hằng giác biết rõ mình, với trạng thái phấn chấn lúc ấy chúng tôi đã làm
bài thơ để nói về trạng thái hằng giác: Ðường đạo vốn chẳng khó. Nhưng mấy ai
đã rành. Bởi móng tâm phân biệt. Nên không rõ mối manh. Mê lầm nên vọng chấp.
Thấy thật có, thật không. Chê mê đi tìm ngộ. Giữa thuận nghịch chẳng đồng. Mọi
pháp vốn bình đẳng. Thủ và xả làm chi. Một niệm chẳng khởi hiện. Chân như hiện
tức thì. Tự tính xưa nay có. Trọn vẹn như hư không. Rổng rang mà chiếu sáng.
Tĩnh lặng thầm ngộ duyên. Khi xét lại, chúng tôi thấy chưa thoát ra khỏi kiếp
khổ đau của con người, rồi tự mình an ủi chắc là phước duyên của mình còn mỏng
nên cần phải tu tiếp. Nhưng càng tu, chúng tôi thấy mình chẳng làm chủ được cái
gì mà chỉ có ưa tranh luận và làm những bài thơ siêu tưởng. Trên thực tế khổ
đau vẫn hoàn khổ đau, chẳng đi được đến đâu, mà vẫn phải bám vào lý Ðạo lý Thiền
như một liều thuốc an thần, để tự an ủi rằng mình đang tu theo Ðạo Phật để cầu
giả thoát. Chỉ đến khi chúng tôi tìm đọc Ðường Về Xứ Phật của Thầy Thông Lạc và
đồng thời nghiên cứu thêm kinh điển Nguyên Thủy, mới biết được đường lối tu tập
một cách đúng đắn, áp dụng vào thấy có được những kết quả cụ thể, thân tâm được
an lạc, thanh thản và giải thoát. Trong các đạo hữu của chúng tôi hiện có những
vị đang tu tập tịnh chỉ hơi thở để làm chủ sự sống chết. Qua thực tiển tu tập của
những cư sĩ Phật tử miền Bắc, đã đi từ các pháp tu của Tịnh Ðộ Tông, chuyển
sang Mật Tông, Thiền Tông và bây giờ là Ðường Về Xứ Phật theo đường lối Nguyên
Thủy của Ðức Phật. Chúng tôi nhận thấy Thiền Tông đã lấy thức thanh tịnh làm Phật
tánh, biến Ðạo Phật từ vô ngã trở thành hữu ngã với pháp tu trong không chạy
theo vọng tình, ngoài không bị dính mắc ngoại cảnh. Cho nên đã lấy pháp tưởng
làm cứu cánh. Như vậy vẫn nằm trong sự hạn chế của ngủ uẩn thì không bao giờ có
khả năng đưa hành giả hướng đến giác ngộ và giả thoát được. Tại sao vậy? Xin được
phân tích theo quan niệm của Ðại Thừa và Thiền Tông: Phật tính là tính nghe,
tính thấy, tính biết, là cái có sẳn ở mỗi người, ở mỗi chúng sanh, nó không bị
mất đi theo thời gian và không gian. Chỉ vì chúng sanh mê lầm vọng chấp thấy thật
có thật không nên khởi niệm tốt xấu, khen chê, yêu ghét vì thế mà tâm bị nhiễm
ô, tạo nghiệp sanh tử luân hồi. Ðến khi nào người hành giả tu tập vượt ra ngoài
đối đãi nhị nguyên tức là sáu căn không dính mắc với sáu trần thì lúc bấy giờ
Phật tính mới không nhiễm, tức là đã sống được với tâm Phật của mình, và như vậy
được gọi là giải thoát. Kính thưa quí bạn! Tính nghe, tính thấy, tính biết là
gì? Ðó là thức uẩn vậy, như khi nhãn căn tíếp xúc với trần cảnh, phải thông qua
hệ thống dây thần kinh đưa hình ảnh đó về não bộ mới cho chúng ta biết vật đó
là vật gì. Cái biết đó gọi là thức, cụ thể ở đây là nhãn thức, nếu ở tai thì
nhĩ thức, ở lưỡi thì vị thức,... Khi căn tiếp xúc với trần có thêm ý thức tham
gia thì có sự phân biệt các hình ảnh, âm thanh mùi vị, cảm giác theo tốt xấu,
hay dở, khen chê. Và vì thế các nhà Ðại Thứa và Thiền Tông chủ trương:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét