03-LÒNG TIN PHẢI CÓ CĂN CỨ
LỜI PHẬT DẠY:
“Thưa tôn giả Gotama, câu chú thuật của các Tổ
Bà La Môn, y cứ tiếng đồn, truyền thống và Thánh tạng Bà La Môn. Và ở đây các vị
Bà La Môn chắc chắn đi đến kết luận: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm”.
Ở đây Gotama nói gì?
Nhưng này Bharadvaja, có một vị tôn sư nào giữa
các Bà La Môn đã nói như sau: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này. Chỉ đây là
sự thật ngoài ra đều là sai lầm”?
Thưa không, Tôn Giả Gotama!
Nhưng này Baharadvaja, có một tôn sư nào của
các vị Bà La Môn, cho đến vị tôn sư của các vị tôn sư trở lui cho đến 7 đời.
Các vị đại tôn sư đã nói như sau: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”?
Thưa không, Tôn Giả Gotama!
Như này Baharadvaja, có một tôn sư nào của
các vị Bà La Môn, cho đến vị tôn sư của các vị tôn sư trở lui cho đến 7 đời.
Các vị đại tôn sư đã nói như sau: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”?
Thưa không, Tôn Giả Gotama!
Nhưng này Baharadvaja thuở xưa những vị ẩn sĩ
giữa các Bà La Môn, những các tác giả các chú thuật, những nhà tụng táng của
chú thuật, đã hát đã nói lên, đọc lên giống như các vị trước đã làm như là
Atthaka, Vamaka, Vamadeva, Vasrttha, Vessamitta, Yamataggi, Angirase,
Bharadvdja, Kassapa, Bhagu, những vị ấy đã nói như sau: “Chỉ đây là sự thật
ngoài ra đều là sai lầm”?
Thưa không, Tôn Giả Gotama.
Này Bharadvaja. Ta nghĩ rằng lời nói của các
Bà La Môn, cũng giống như một chuỗi người mù, người trước không thấy, người giữa
cũng không thấy, người cuối cũng không thấy. Này Bharadvaja, Ngươi nghĩ thế
nào? Sự kiện là như vậy, có phải lòng tin của các vị Bà La Môn trở thành không
căn cứ?”.
(Kinh Trung Bộ tâp
II trang 724, Kinh Canki)
CHÚ GIẢI:
Một thanh niên Bà La Môn tên là
Kapathika hỏi đức Phật về một lòng tin vào Thánh tạng kinh điển chú thuật truyền
thống từ xa xưa của Bà La Môn: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc
này. Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”. Và Tôn giả
Gotama nói gì về vấn đề này?
Khi được hỏi câu này đức Phật
trả lời bằng một câu hỏi khác ngay với những vị Bà La Môn hiện có mặt tại cuộc
họp này.
Các vị có ai dám xác định rằng: “Tôi
biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”.
Tất cả các vị Bà La Môn đều im
lặng không ai dám trả lời, chỉ có Ba La Môn Bharadvaja là người có uy tín nhất
trong các vị Bà La Môn nên đại diện trả lời.
– “Thưa không, Tôn giả
Gotama”.
Ở đây các bạn nên hiểu câu hỏi
của đức Phật rất quả quyết và mạnh mẽ về Thánh tạng Vệ Đà kinh của Bà La Môn
đúng hoặc sai. Vì thế câu hỏi này có hai câu trả lời:
1- xác định
2- phủ định
Ở đây các bà La Môn không dám
xác định mà trả lời phủ định vì trả lời phủ định là thành thật.
Nếu trả lời xác định: “Tôi
biết việc này, tôi thấy việc này” thì đức Phật sẽ hỏi: “biết
việc này như thế nào?”.
Về vấn đề kinh tạng Vệ Đà, đức
Phật đã thấu suốt kinh tạng chú thuật này chỉ là thuyết ngôn ngữ suông, chưa có
một vị nào chứng đắc chân lí ấy, nên làm sao biết đâu trả lời cho chính xác. Nếu
trả lời biết thấy mà không chính xác rõ ràng thì đức Phật bác bỏ. Mục đích của
kinh Vệ Đà là những lí luận mơ hồ, ảo tưởng không thực tế. Không cụ thể, nên
làm sao lại dám bảo rằng: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”? Cho
nên, câu hỏi của đức Phật đơn giản nhưng trả lời rất khó khăn.
Ở đoạn kinh này chỉ có những
người tu chứng đạo mới dám trả lời: “Tôi biết việc này tôi thấy việc
này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”? Còn những người
tu chưa chứng chân lí thì không bao giờ dám nói lời này.
Câu hỏi của đức Phật: “Có
tôn sư vị Bà La Môn nào, dù cho đến 7 đời tôn sư và những vị Bà La Môn Tổ sư
sáng tạo ra kinh sách Vệ Đà và chú thuật đã chứng được chân lí đó chưa?”.
Do thấu suốt toàn bộ Thánh kinh
Vệ Đà là một loại kinh tưởng không thực tế. Mục đích mơ hồ, ảo tưởng. Một chân
lí không rõ ràng như vậy thì làm gì có người tu chứng chân lí ấy? Do đó, đức Phật
mới có câu hỏi: tôn sư bảy đời và những tôn sư sáng tạo ra kinh sách này có dám
nói rằng: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này (tức là chứng đạo),
chỉ đây là sự thật ngoài ra đều sai lầm?”.
Người hỏi câu này là người đã
chứng chân lí mới dám hỏi. Nếu chưa chứng chân lí thì không dám hỏi câu này. Tại
sao vậy? Vì có chứng chân lí mới biết chân lí. Biết chân lí mới dám hỏi người khác.
Nghiệm xét qua đoạn kinh trên
các bạn nhận xét về Thầy Thông Lạc. Tại sao Thầy Thông Lạc dám nói kinh sách Đại
Thừa và Thiền Đông Độ sai? Nếu Thầy Thông Lạc tu hành chưa chứng được chân lí
giải thoát của đạo Phật thì Thầy có dám nói kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông
sai không? Nếu Thầy tu chưa chứng thì chỉ có thuyết giảng như các Thầy Đại Thừa
mà thôi.
Vì thế, người tu chứng chân lí
mới dám xác nhận pháp nào sai, pháp nào đúng. Ngày xưa đức Phật dám nói thẳng
điều này, ngày nay Thầy Thông Lạc cũng vậy, khi tu chứng mới thấy được cái sai
cái đúng
Trên hành tinh này loài người
chỉ có bốn chân lí, bốn chân lí ấy phải chân thật, thực tế, cụ thể rõ ràng như
chân lí của Phật giáo KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO mới thật là
chân lí, dù mọi người tu chưa chứng đạo nhưng vẫn nhận thấy biết rõ ràng cụ thể,
không có mơ hồ, trừu tượng, ảo tưởng.
Bởi vậy, kinh sách Đại Thừa sai
là vì chân lí của Đại Thừa mơ hồ, ảo tưởng, trừu tượng cũng giống như kinh sách
Vệ Đà của Bà La Môn. Lấy câu hỏi của Phật trong kinh Canki thuộc kinh Trung Bộ
tập II mà hỏi các vị Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni tu theo kinh sách
Đại Thừa và Thiền Tông đã có ai chứng được chân lí giải thoát làm chủ 4 sự khổ
đau; sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi chưa? Hay chỉ là chứng những
chân lí ảo tưởng “Phật tánh, Bản lai, Cực Lạc Tây Phương” do
chứng những chân lí ảo tưởng nên chẳng biết phương pháp nào chuyển bệnh, làm chủ
sự sống chết rõ ràng, cụ thể v.v..
Phần đông đứng trước bệnh tật sống
chết các Ngài chỉ khéo lí luận “Chẳng muội nhân quả” để
che đậy và lừa đảo Phật tử. Càng tu hành thì càng phải trả nghiệp, dồn nghiệp
v.v.. Chân lí của Phật là chân lí chuyển nghiệp, chứ đâu phải trả nghiệp, dồn
nghiệp, nếu trả nghiệp, dồn nghiệp thì còn đâu là chân lí. Phải không các bạn?
Người chứng được chân lí của Phật
giáo Nguyên Thủy đều thấy biết cái sai của Đại Thừa rất rõ ràng, nhờ có tu chứng
như vậy mới dám nói: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này chỉ đây
là sự thật, ngoài ra đều sai lầm”.
Đức Phật đã chứng đạt chân lí
giải thoát thật sự. Vì thế, mới có bài kinh Canki lưu lại cho đến ngày nay,
Ngài chỉ cho mọi người thấy chân lí của loài người chỉ có Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế
gồm có: khổ, tập, diệt, đạo, ngoài ra không còn có chân lí nào khác nữa.
Một lần nữa đức Phật đã xác định
trong kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc kinh Trường Bộ tập I, trang 659: “Này
Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát Chánh Đạo thời ở đấy không có Sa Môn
thứ nhất, thứ nhì, thứ ba và thứ tư”. Câu nói này có nghĩa là trong
giáo pháp nào không có Bát Chánh Đạo thời giáo pháp ấy không có tu chứng giải
thoát sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi như đã nói trên, còn giáo pháp
nào có Bát Chánh Đạo thì giáo pháp ấy có tu chứng.
Cho nên, những vị Tổ Sư Tăng,
Ni biên soạn và viết ra kinh sách Đại Thừa, không có vị Tổ Sư nào dám bảo rằng:
Ta chứng được chân lí như đức Phật? Họ chỉ khéo lí luận bằng câu “Người
nào còn thấy mình tu chứng là chưa chứng”. Thường các Tổ hay dùng
câu: “Vô sở đắc”. Đó là lối che đậy lừa đảo tín đồ dễ nhất.
Không có vị Tổ sư nào dám
nói: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật ngoài
ra đều là sai lầm”.
Đọc hết kinh sách Đại Thừa các
bạn không bao giờ thấy có lời dạy như trong kinh sách Nguyên Thủy. Ở đây trong
kinh sách Nguyên Thủy các bạn thường thấy đức Phật và các vị đệ tử của Phật khi
tu chứng thường tuyên bố: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì
nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa”.
Kính thưa các bạn! Khi các bạn
đọc kinh sách Đại Thừa có thấy vị Tổ sư nào dám to tiếng tuyên bố: “Tôi
biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật ngoài ra đều là sai lầm” như
trong kinh Nguyên Thủy này không?
Trong kinh sách Nguyên Thủy thường
nhắc đến các vị chứng đạt chân lí tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ
đều tuyên bố như Phật đã tuyên bố: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa”.
Khi đã tuyên bố như vậy là biết mình đã tu xong. Người đã tu xong mới dám nói
câu này: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật
ngoài ra đều là sai lầm”. Người nói như vậy mới thật sự là đệ tử của
Phật. Khi tu chưa chứng thì thấy lỗi mình không thấy lỗi người, nhưng khi đã tu
chứng thì không hèn nhát, không sợ hãi, dám nói thẳng nói thật như đức Phật
ngày xưa. Đúng là nói đúng, sai là nói sai; không tư vị, không xu nịnh ai cả,
cũng chỉ vì một mục đích duy nhất là bảo tồn Chánh pháp của Phật.
Hầu hết đệ tử của đức Phật
trong kinh Nguyên Thủy, khi tu chứng đạt chân lí đều nói những lời trên đây. Vị
đệ tử cuối cùng của đức Phật, lúc Phật sắp nhập Niết Bàn, khi nghe thuyết giảng
xong liền buông xả sạch các pháp thế gian, chứng đạt chân lí, Ông dõng dạc
tuyên bố trước mọi người và đức Phật: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
những việc gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời khác nữa”.
Kính thưa các bạn! Từ khi có
kinh sách Đại Thừa cho đến nay, các bạn chưa từng nghe các bậc tôn túc Tổ sư, từ
người khởi sự biên soạn kinh sách Đại Thừa cho đến hiện nay các vị tôn túc Hòa
Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni đều đã học và tu tập giáo pháp kiến giải
chưa có vị nào dám tuyên bố. “Tôi đã tu chứng đạo, làm chủ sanh,
già, bệnh, chết, chấm dứt luân hồi”. Chính vì con đường của Đại Thừa
không thể tu chứng được, cho nên họ đâu dám nói: “Tôi biết việc này,
tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật ngoài ra đều là sai lầm”.
Mục đích giải thoát của Đại Thừa
mù mờ, ảo tưởng không rõ ràng, không cụ thể. Vì thế, các Thầy Đại Thừa giống
như những người mù, một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy,
người giữa cũng không thấy và người cuối cũng không thấy. Cho nên đâu dám bảo: “Sanh
đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không
có đời khác nữa”. Riêng Phật giáo Nguyên Thủy khi chứng đạt đều
nói câu này mà còn dám nói: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này,
chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm”. Không thấy mục đích giải
thoát cho nên lòng tin của các Thầy Đại Thừa trở thành không có căn cứ. Nhưng lại
muốn che đậy những điều sai lầm này nên các Tổ sư Đại Thừa bảo như trên đã
nói: “Ai thấy mình tu chứng đắc là chưa chứng đắc (vô sở đắc), chứng
đắc không thấy mình đắc mới là chứng đắc”. Lời dạy này là một lối lý luận
khéo léo gian xảo. Từ đó về sau các Thầy Đại Thừa thường dùng những từ
này “vô sở đắc”. Khi nghe ai nói chứng đắc. Cho nên,
người Phật tử khó phân biệt người tu sĩ của Phật giáo tu chứng hay chưa tu chứng,
còn xét về giới luật thì các Ngài lý luận: “Hạnh trực thì đâu cần giữ
giới”. Cho nên “Tự tại vô ngại đói ăn, khát uống, mệt ngủ”. Do
lí luận này nên mới có Nam Tuyền sát miêu, Lâm Tế chém rắn, Thượng Sĩ Tuệ Trung
ăn thịt uống rượu và Tế Điên Hòa Thượng ăn thịt chó uống rượu li bì.
Giáo pháp tu hành phải đặt trọn
lòng tin có căn cứ rõ ràng, cụ thể, thực tế, chứ không thể chỉ có lòng tin
suông được. Nếu chỉ có lòng tin suông là lòng tin mù quáng. Từ lâu quý Phật tử
đã đặt trọn lòng tin vào kinh sách Đại Thừa không căn cứ vững chắc. Kinh Đại Thừa
là một loại kinh sách có một mục đích giải thoát mơ hồ, trừu tượng, ảo tưởng,
không thực tế, không cụ thể. Cho nên, đức Phật dạy: “Lời nói của các
Bà La Môn cũng giống như chuỗi người mù, người trước không thấy, người giữa
không thấy, người cuối cùng cũng không thấy. Này Bharadvaja, Ngươi nghĩ thế
nào? Có phải lòng tin của các Bà La Môn trở thành không có căn cứ?”.
Xưa đức Phật chỉ vạch giáo pháp
của Bà La Môn sai như vậy. Hiện giờ chúng tôi cũng vậy, vạch trần bộ mặt thật của
Đại Thừa, từ bao lâu thế kỷ nay biết bao nhiêu thế hệ trẻ đã bị lừa, chẳng có
ai tu hành ra gì. Chỉ toàn là tu danh, tu lợi, tu chùa to, Phật lớn, tu ăn
tu ngủ. Thật là đau lòng. Phải không các bạn?
May ra chúng ta còn có những
bài kinh Nguyên Thủy để so sánh, xác chứng kinh sách Đại Thừa là kinh sách của
ngoại đạo lồng vào giáo pháp của đức Phật để lừa gạt tín đồ Phật giáo, biến tín
đồ Phật giáo thành tín đồ ngoại đạo mê tín, lạc hậu, chỉ có tin một cách mù
quáng, để làm tay sai cho những người đầu cơ tôn giáo làm giàu trên mồ hôi nước
mắt của hàng ngàn tín đồ. Và thiêu hủy biết bao nhiêu tiền của do lòng mê tín của
đồng bào cả nước cúng kính.
(Trích sách Những lời
gốc Phật dạy – Tập 4, NXB Tôn Giáo – 2011, trang 174-186)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét