04- LÒNG TIN
CHÂN CHÁNH
LỜI PHẬT DẠY:
“Này các Kàlàmà! Chớ
có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì nghe truyền thống, chớ có tin vì
nghe người ta nói đồn, chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng, chớ có tin vì
nhân lý luận siêu hình, chớ có tin vì đúng theo một lập trường, chớ có tin vì
đánh giá hời hợt những dự kiện, chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình,
chớ có tin nơi phát xuất có uy quyền, chớ có tin vì bậc sa môn là đạo sư của
mình v.v..
Nhưng này các
Kàlàmà! Khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này bất thiện, các pháp này
là có tội lỗi, các pháp này bị người có trí hiểu biết chỉ trích, các pháp này nếu
thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”. Thời này, Kàlàmà hãy từ bỏ
chúng không nên tin theo”.
CHÚ GIẢI:
Đức Phật đã xác định có 10 điều
không nên vội tin:
1/ Chớ có tin vì nghe truyền
thuyết.
2/ Chớ có tin vì nghe truyền thống.
3/ Chớ có tin vì nghe người ta
nói đồn.
4/ Chớ có tin vì được kinh tạng
truyền tụng.
5/ Chớ có tin vì nhân lý luận
siêu hình.
6/ Chớ có tin vì đúng theo một
lập trường.
7/ Chớ có tin vì đánh giá hời hợt
những dữ kiện.
8/ Chớ có tin vì phù hợp với định
kiến của mình.
9/ Chớ có tin nơi phát xuất có
uy quyền.
10/ Chớ có tin vì bậc sa môn là
đạo sư của mình, v.v..
1- Lời dạy thứ nhất: “Chớ
có tin vì nghe truyền thuyết”. Đức Phật khuyên chúng ta không nên tin theo
truyền thuyết. Vậy truyền thuyết nghĩa là gì?
Truyền thuyết là truyền miệng
có nghĩa là kể chuyện, thuật chuyện như kể truyện dân gian về các nhân vật, kì
tích lịch sử, chuyện thần tiên, chuyện ma quỷ, chuyện địa ngục, chuyện Thiên
đàng, Cực lạc, v.v.. những câu chuyện thường mang nhiều yếu tố thần kì. Đó là
những câu chuyện truyền miệng từ người này đến người kia nối tiếp nhau trong một
quá trình thời gian dài vô cùng vô tận. Những chuyện ấy là những chuyện không
có thật. Từ xưa đến giờ có nhiều truyền thuyết về đức Phật Thích Ca Mâu Ni như
sinh ở hông và khi sinh ra đi bảy bước có bảy hoa sen đỡ chân. Tay chỉ trời chỉ
đất, miệng tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”; sau
khi Bồ Đề Đạt Ma chết, người ta còn gặp ông quảy một chiếc giày đi về phương
Tây; gia đình ông Bàng Long Uẩn chết tự tại trong thiền định. Đó là những truyền
thuyết không có thật, do người sau ghi chép lại trong sách. Do đó, đức Phật bảo
chúng ta đừng có tin.
Chính kinh tạng của đức Phật
cũng do kết tập theo kiểu truyền miệng, vì thế chúng ta cũng không nên tin theo
trọn vẹn, nếu những lời dạy ấy không phải là thiện pháp thì không nên tin.
2- Lời dạy thứ hai: “Chớ
có tin vì theo truyền thống”. Đức Phật khuyên chúng ta không nên tin theo
truyền thống. Vậy truyền thống nghĩa là gì?
Truyền thống là nền nếp thói
quen tốt đẹp hay thói quen mê tín, lạc hậu được lưu giữ từ đời này, qua đời
khác. Cho nên, những gì truyền thống lâu đời chúng ta cũng không nên đặt trọn
lòng tin ở đó, vì không phải tất cả những truyền thống đều tốt đẹp cả.
3- Lời dạy thứ ba: “Chớ
có tin vì nghe người ta nói đồn”. Đức Phật khuyên chúng ta không nên tin vì
nghe người ta đồn. Vậy tin đồn nghĩa là gì?
Tin đồn là tin tức truyền miệng
từ người này đến người khác. Tin đồn thường là những tin tức thất thiệt không
đúng sự thật. Ví dụ: Ở núi Bà Tây Ninh có Bà Đen, ở Miền Bắc có Bà Chúa Kho, ở
Châu Đốc An Giang có Bà Chúa Xứ,… rất thiêng thường ban tài lộc cho người đến cầu
xin. Hay ở Bến Củi có ông thầy nước lạnh, ai đau bệnh gì ông cho một chai nước
lạnh về uống là hết bệnh. Đó là những tin đồn, chúng ta không nên tin.
4- Lời dạy thứ tư: “Chớ
có tin vì được kinh tạng truyền tụng”. Đức Phật khuyên chúng ta không nên
tin vì được kinh tạng truyền tụng. Vậy kinh tạng truyền tụng nghĩa là gì?
Kinh tạng truyền tụng là những
lời dạy của các bậc Thánh và chư Phật được ghi chép lại thành sách. Kinh tạng ở
đây gồm có cả những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhưng tại sao đức Phật
Thích Ca Mâu Ni lại dạy chúng ta đừng tin lời Ngài dạy?
Ngài biết rất rõ ba lần chép lại
một bản kinh là đã chép sai lời dạy của Ngài, chứ chưa nói chi là kiến giải, tưởng
giải viết ra; nên người xưa nói: tam sao thất bổn.
Như thế, qua lời dạy này ngay cả
kinh tạng Nguyên Thủy còn không tin trọn vẹn thì làm sao chúng ta tin kinh sách
Đại Thừa được. Phải không các bạn?
5- Lời dạy thứ năm: “Chớ
có tin vì nhân lý luận siêu hình”. Đức Phật khuyên chúng ta không nên tin
vì nhân lý luận siêu hình. Vậy lý luận siêu hình nghĩa là gì?
Không có cõi Cực lạc, Thiên
đàng mà lý luận bằng cách này, cách khác để cho có các cõi ấy; sau khi chết
không có sự sống nhưng khéo lý luận bằng cách này, cách khác để cho mọi người
tin rằng người chết còn có linh hồn; không có Phật tánh mà lý luận bằng cách
này, cách khác để cho mọi người tin rằng có Phật tánh, v.v.. Đó là những lối lý
luận siêu hình để lừa đảo mọi người, cho nên đức Phật khuyên chúng ta chớ có
tin, vì nó không ích lợi gì cho chúng ta cả.
6- Lời dạy thứ sáu: “Chớ
có tin vì đúng theo một lập trường”. Đức Phật khuyên chúng ta không nên tin
một điều gì dù đúng theo một lập trường của mình. Vậy, đúng theo một lập trường
nghĩa là gì?
Trước tiên, chúng ta nên hiểu
hai chữ lập trường. Lập trường là thái độ, chỗ đứng nhìn nhận và xử lý. Ví dụ:
anh có lập trường đối với kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông nên không ai có thể
lay chuyển hay bảo anh bỏ nó được. Ở đây đức Phật dạy: “Chớ có tin vì
đúng theo một lập trường”, có nghĩa là kinh sách Đại Thừa và Thiền
Tông có lối lý luận giống như lập trường của anh.
Ví dụ: anh có lập trường rất vững
về thế giới siêu hình, có nghĩa là thái độ, chỗ đứng, nhìn nhận và xét lý rõ
ràng, vì vậy dù ai nói gì anh cũng không bỏ lập trường đó. Khi anh có lập trường
như vậy thì có những loại kinh sách nói về thế giới siêu hình giống như lập trường
của anh thì anh tin ngay. Nhưng điều này đức Phật khuyên anh: “Chớ có
tin vì đúng theo một lập trường”. Tin như vậy vẫn không đem đến sự lợi ích
cho anh, tin như vậy là tà tín, quá chủ quan ở lập trường của mình.
7- Lời dạy thứ bảy: “Chớ
có tin vì đánh giá hời hợt những dự kiện”. Đức Phật khuyên chúng ta không
nên tin vì đánh giá hời hợt những dự kiện. Vậy dự kiện nghĩa là gì?
Dự kiện có nghĩa là những cơ sở
để tìm tòi, là những điều coi như biết trước, đã dự phòng trước. Nhưng ở đây, đức
Phật khuyên chúng ta đừng tin một cách hời hợt đối với những dự kiện. Tại vì những
dự kiện chưa hẳn đã mang lại lợi ích thiết thực cho mình.
Ví dụ: Thiền Tông lấy Phật tánh
làm tiền đề (dự kiện) cho sự kiến tánh thành Phật của pháp môn. Ở đây, đức Phật
khuyên chúng ta đừng vội tin mà hãy tư duy kỹ lưỡng, xem lại dự kiện Phật tánh
có đúng không? Trong kinh Đại Thừa dạy: Phật tánh là tánh giác, thường biết,
thường nghe, thường thấy. Như vậy, khi ngủ say, ngủ quên thì tánh thấy, tánh
nghe, tánh biết ở đâu? Hay nó cũng ngủ theo… Như vậy những dự kiện có đáng tin
không?
8- Lời dạy thứ tám: “Chớ
có tin vì phù hợp với định kiến của mình”. Đức Phật khuyên chúng ta không
nên tin vì phù hợp với định kiến của mình. Vậy định kiến nghĩa là gì?
Định kiến là ý kiến riêng có sẵn
từ trước, khó thay đổi. Từ lâu ta có định kiến về con người “Có sự sống
sau khi chết”, nên khi đọc kinh sách Đại Thừa thấy nói nhiều về cảnh giới
siêu hình như: cảnh giới Thiên đàng, cảnh giới Cực lạc, cảnh giới Niết bàn và cảnh
giới địa ngục, v.v.. trong các cảnh giới đó có Thần, Thánh, Tiên, Phật, Ngọc
Hoàng Thượng Đế, linh hồn, thần thức, Phật tánh, đại ngã, tiểu ngã, ma quỷ, yêu
quái, v.v.. Do định kiến ta tin ngay liền không cần phải suy tư xem xét cho kỹ
lại.
Ở đây, đức Phật khuyên chúng ta
đừng có tin, vì tin như vậy sẽ trở thành những người mê tín, lạc hậu. Sự mê
tín, lạc hậu mang đến nhiều điều bất hạnh, nhất là bị kẻ khác lừa đảo, tốn hao
tiền của và công sức nhảm nhí không ích lợi cho mình, cho người mà còn làm hại
mình.
9- Lời dạy thứ chín: “Chớ
có tin nơi phát xuất có uy quyền”. Đức Phật khuyên chúng ta không nên tin
nơi phát xuất có uy quyền. Vậy nơi phát xuất có uy quyền nghĩa là gì?
Uy quyền là quyền thế của vua,
của quan, của những người có thế lực đông người.
Ngày xưa, trong thời phong kiến
nước ta cũng như nước Trung Hoa, nếu nhà vua nào lấy tôn giáo làm quốc giáo thì
bắt buộc dân chúng nước đó phải theo tin tôn giáo đó.
Thời nhà Lý ở nước ta, nhân dân
sùng tin Phật giáo Đại Thừa là vì vua, quan, đều là tín đồ Phật giáo. Cho nên,
thời đó người ta theo Phật giáo vì uy quyền của nhà vua. Ở đây, đức Phật khuyên
chúng ta “Chớ có tin nơi phát xuất có uy quyền”. Lời khuyên của đức
Phật muốn chúng ta tin một điều gì thì không phải vì thế lực, vì uy quyền, vì sợ
mà tin hay vì thấy linh thiêng mà tin.
Ví dụ: Đình, miếu, chùa, Thần
Thánh, quỷ ma, bà Chúa Kho, bà Chúa Xứ, cây đa, gốc cây, cục đá, gò mối, v.v..
linh thiêng. Đó là thấy uy quyền linh thiêng rồi mọi người tin theo đến cúng
bái lạy lễ cầu xin.
Tin như vậy, đối với Đạo Phật
không chấp nhận vì đó là tin mù quáng. Tin mù quáng là đem lại sự tai hại cho
chúng ta chứ không ích lợi gì, biến chúng ta trở thành kẻ ngu si dễ bị uy quyền
và sự linh thiêng sai khiến.
10- Lời dạy thứ mười: “Chớ
có tin vì bậc Sa Môn là Đạo Sư của mình”. Đức Phật khuyên chúng ta không
nên tin vì bậc Sa Môn là Đạo Sư của mình. Tại sao ở đây đức Phật dạy chúng ta
không nên tin những Sa Môn là Đạo Sư của mình? Vậy Sa Môn và Đạo Sư nghĩa là gì?
Sa Môn có nghĩa là một nhà tu hành, một vị tu sĩ; Đạo sư là một vị thầy dạy
phương pháp tu hành.
Trong cuộc đời của chúng ta gặp
biết bao nhiêu là bậc Sa Môn đều là những tu sĩ Phật giáo, nhưng đừng tin họ là
Đạo Sư của chúng ta, vì có nhiều loại Sa Môn: Sa Môn phạm giới, Sa Môn phá giới,
Sa Môn bẻ vụn giới, Sa Môn chỉ biết dựa vào kinh thuyết giảng nói láo, chứ chưa
có một ngày tu tập hoặc tu tập chưa đến nơi đến chốn, tâm tham, sân, si còn
ngút ngàn, họ còn tham danh, đắm lợi như người thế gian. Có những Sa Môn dám lấy
Phật giáo biến làm nghề mê tín, chuyên cúng bái tụng niệm, bói khoa, xem ngày
giờ tốt xấu, v.v.. Đối với những Sa Môn này đức Phật khuyên chúng ta chớ có tin
họ là bậc Đạo Sư của mình.
Phần đông tín đồ Phật giáo, hễ
thấy ai cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa thì cúng dường và lạy lễ mà không chịu xem
họ có phải là những người tu thật hay những người tu giả.
Trên đây là 10 điều dạy của đức
Phật, Ngài khuyên chúng ta không nên tin từ các pháp môn, đến những bậc Sa Môn
và ngay cả những lời dạy của Ngài cũng chẳng nên tin. Chỉ tin là khi nào chúng
ta thực hành thấy có kết quả, bằng không kết quả thì không tin. Có kết quả tức
là có giải thoát nơi thân tâm. Có giải thoát tức là phải sống đúng đạo đức làm
Người, làm Thánh; có sống đúng đạo đức làm Người, làm Thánh thì mới không làm
khổ mình, khổ người; không làm khổ mình, khổ người là người đã ly dục ly ác
pháp. Nếu có kết quả ly dục ly ác pháp như vậy thì chúng ta mới tin.
Chỉ vì các bạn không nghe lời dạy
của Phật, gặp pháp môn nào cũng tin, hay nghe người nào thuyết giảng hợp lý với
mình là tin ngay, nhất là nghe nói bài kinh đó của Phật thuyết là tin liền. Tin
một cách mù quáng không cần tìm hiểu cho rõ ràng, có đúng là Phật thuyết hay
không. Do tin mù quáng nên dễ bị kinh sách Đại Thừa lừa đảo, vì thế cuộc đời tu
hành của chúng ta đến nay vẫn là số không, chỉ sống trong ảo tưởng tôn giáo.
(Trích sách Những lời
gốc Phật dạy – Tập 1, NXB Tôn Giáo – 2011, trang 96-107)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét