261-NHỮNG LỜI CÔ DIỆU QUANG DẠY
1.- Người
xưa dạy: "Trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần" có ý nghĩa là trước
khi nói một điều gì phải suy nghĩ kỹ càng, xem lời sắp nói là thiện hay ác, lời
nói có làm buồn khổ cho ai không? Lời nói có lợi ích cho người hay không? Nếu lời
nói thiện không làm buồn khổ cho ai thì nên nói. Còn lời nói ác làm khổ cho người
hoặc lời nói không có lợi ích cho ai thì dừng lại, không nên nói.
2.- Sống độc
cư không nói chuyện để tâm luôn luôn tỉnh thức làm chủ cái ý. Sống trong cảnh động,
làm việc chung lưng với nhau mà không nói chuyện mới thấy rõ tâm mình có giữ được
hạnh độc cư hay không? Tiếp xúc với nhau trong công việc hằng ngày nơi nhà bếp,
khi muốn nói một chuyện gì thì ta tác ý "Ta đang tu, đang giữ hạnh độc cư
thì không được nói chuyện" do tác ý như vậy nên tâm không duyên theo cảnh
mà khởi động. Ðó là làm chủ được cái ý. - Nếu không làm chủ được cái ý thì lén
lút nói chuyện, như vậy là ức chế tâm trong hạnh độc cư. - Còn ngồi yên trong
thất thì không gặp cảnh nên không rõ tâm mình trong hạnh độc cư.
3.- Hằng
ngày ta luyện tập làm chủ cái ý, lâu dần sẽ thuần thục. Ðến khi lâm chung, mọi
chuyện trong quá khứ tuỳ theo nhân quả thiện ác của ta diễn biến trong tâm thức
như chiếu lại "cuộn phim" của chính ta. Nhờ luyện tập ngăn ác diệt ác
pháp hằng ngày mà tâm ý được chủ động, không duyên theo cuốn phim ấy, không khởi
tâm ham muốn, tâm tình cảm,... thì lúc đó tâm ta đã thuần thục trong việc làm
chủ ý, nên ta điều khiển ý không đi thọ sanh nữa, có nghĩa là chấm dứt tái sanh
luân hồi.
4.- Cô Út
hay la rầy mấy em, không phải là la rầy về nấu ăn, mà la rầy vì không dừng được
ý, thiếu tỉnh thức trong việc làm. Vì vậy, người tu phải rèn luyện cho mình một
ý chí, cương quyết làm sao dừng cái ý cho được mới làm chủ được sanh tử luân hồi.
Muốn dừng được ý, trước tiên là không được nói chuyện. Không nói chuyện là mình
dừng được ý cho mình và dừng được ý cho người. Có lợi chung với nhau. Có lợi
ích cho mình cho người thì nên làm.
5.- Trong ba
hạnh ăn, ngủ, độc cư thì hạnh độc cư là khó nhất. Khi có người hỏi chuyện, khơi
chuyện cho mình nói, mình nhất quyết làm chủ cái ý nên không nói, không tham
gia vào câu chuyện đó, mình không thể tùy thuận làm vừa lòng người trong trường
hợp này được. Nếu ngược lại là mình không làm chủ được cái ý của mình. Nói thì
tâm xao động theo ngoại cảnh làm ta mất tỉnh thức. Do vậy, người đang tu tập
không nên nói chuyện.
6.- Khi ngồi
thiền, người tu phải quán xét mình đang ở trạng thái nào thì biết rõ trạng thái
đó. Tâm đang khởi niệm tham, hay sân, hay si, hoặc khởi tâm dục hay an lạc đều
phải xả hết. Nếu có sự an lạc mà đắm chìm trong an lạc đó thì sẽ rơi vào định
tưởng là mất tỉnh thức, dễ bị tẩu hỏa nhập ma. Người tu thiền phải rõ và cảnh
giác về định tưởng này.
7.- Người tu
hành đừng quá quan trọng về kinh sách và băng giảng. Ðọc để hiểu rồi bước thẳng
vào thực hành. Nếu chấp chặt vào kinh sách rồi suy luận theo lời giảng thì sẽ
thành kiến giải vay mượn chứ không còn cái thực hành hiểu biết của riêng mình.
Sự tu của mình như thế nào thì chỉ mình biết được mình hơn ai hết, không thể diễn
đạt bằng ngôn ngữ. Kinh điển bất lập văn tự là ngay chỗ này biết mà không biết,
nói mà không nói. Ðời sống thoái mái, tâm thể rổng rang, không dính mắc vào chỗ
nào là sự đạt được của người tu vậy.
8.- Người thế
gian hay nhìn hình tướng mà đánh giá con người nên dễ bị sai lầm. Người tu hành
do có rèn luyện nên không có cái nhìn như người thế gian được. Nhìn hình tướng
bề ngoài mà đánh giá con người qua chiếc áo tu sĩ hay cư sĩ thì lại càng sai lầm
hơn nữa, và bản ngã to lớn khi nghĩ rằng ta là người xuất gia bao giờ cũng hơn
người cư sĩ, người cư sĩ phải có bổn phận phục vụ cho người xuất gia. Do đó khó
diệt được bản ngã. Vì vậy, người tu tập phải có cái nhìn sắc bén thấu suốt ý của
người khác. Nhìn và đánh giá con người bằng cái TÂM chứ không bằng hình tướng
thì sự đánh giá mới chính xác được. Muốn có cái nhìn thấu suốt ý người khác thì
phải luôn luôn tỉnh thức trong chánh niệm mới nhận định đúng sự việc được.
9.- Trong Tu
Viện, việc thực hành đúng đường lối của Ðạo Phật là sống thiểu dục tri túc, nên
không chấp nhận cuộc sống xa hoa, phung phí, đòi hỏi phải có đủ tiện nghi, khiến
cho tâm người tu chỉ mong muốn hưởng thụ mà không diệt được tâm dục. Những cám
dổ của thế gian như TiVi, tủ lạnh, bếp gas đều không được dùng. Con người sanh
ra từ nguyên thủy không có gì thì phải trở về cái nguyên thủy của nó mới thấy
được cội nguồn phải sống. Có sống trong cái khổ mới thấy được Thiên Ðàng, chứ sống
trong dục lạc thì làm sao thấy Thiên Ðàng cho được, chỉ là Thiên Ðàng giả tạo ảo
tưởng mà thôi. Vì vậy, người tu sĩ cũng như người cư sĩ chấp nhận vào sống
trong Tu Viện là chấp nhận cuộc sống đạm bạc, mới đúng chánh hạnh của người tu
giải thoát.
10.- Ái kiết
sử là sợi dây vô hình trói buộc người tu rất mãnh liệt. Nếu người tu không
trang bị cho mình một ý chí quyết liệt, dứt khoát thì khó mà vượt qua được.
Mình cứ nghĩ đi tu là tự mình giải thoát cho mình, ngoài ra không ai giải thoát
cho mình được. Những người thân của mình như cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con
cái chỉ là hợp duyên nợ nần nhân quả, vay trả trong một kiếp sống của mình mà
thôi. Khi trả xong nợ thì đường ai nấy đi, có gì mà nhớ mong, có gì mà thương
tiếc. Nhớ mong thương tiếc quá thì ảnh hưởng không tốt trên bước đường tu của
mình mà thôi. Có thể do sự nhớ thương gia đình, con cái mà đến lúc lâm chung ta
không thể làm chủ được ý để phải chịu tái sanh luân hồi, thì uổng cho một đời
tu. Ðo đó khi có một niệm nhớ thương đến gia đình, con cái thì người tu phải
cương quyết tác ý "Không được nhớ nghĩ thương yêu nữa. Mình đang tu, có nhớ
thương cũng không làm gì được. Hãy lo tu đi, không được nhớ nghĩ đến nữa!".
TÁC Ý LÂU NGÀY thì sự thương nhớ cũng vơi dần rồi hết hẳn.
11.- Người
tu hành có trau luyện nên có cái nhìn khác người thế gian, nhìn trong hiện tại
mà thấu suốt đến tương lai; nhìn một cảnh đẹp hay một bông hoa đẹp là đã thấu
suốt được cảnh đó hay bông hoa đó sẽ bị phai tàn theo thời gian năm tháng. Do
đó, người tu hành không để cảnh dính mắc vào tâm mình; thấy đó, biết đó rồi
quên. Nhìn một cảnh thấy biết đẹp, xấu nhưng không vì đẹp xấu mà khởi tâm ưa
thích. Khởi tâm ưa thích là có tâm dính mắc trong cảnh đó rồi. Nhìn để mà nhìn
nhân quả; biết để mà biết nhân quả; đẹp hay xấu đều là nhân quả khổ đau cả.
12.- Khi gặp
khó khăn, trở ngại gì thì người tu tập phải biết quán tột đỉnh tận cùng để mà
quyết chí vượt qua những khó khăn, trở ngại đó. Quán tột đỉnh khổ đau sẽ không
còn khổ đau nữa. Quán tột đỉnh cái nóng bức để không còn thấy (khổ vì) nóng bức
nữa. Quán tột đỉnh cái lạnh để không còn thấy (khổ vì) lạnh. Quán tột đỉnh của
oan ức để không còn thấy (khổ vì) bị oan ức nữa. Quán tột đỉnh của thân đau nhức
để không còn thấy đau nhức nữa. Khi ta quán tột đỉnh cường độ tình trạng những
sự việc trên thì ta vượt qua không mấy khó khăn những trở ngại đang có. Nếu
không quán xét để vượt qua thì ta cứ triền miên trong cái khổ, cái đau, cái
nóng, lạnh và bị lệ thuôc vào ngoại cảnh mà không làm chủ được ý mình. Vì vậy,
người tu tập phải biết cách vượt qua những trở ngại để tự tạo cho mình luôn có
một tâm hồn thanh thản, an lạc trước mọi diển biến cuộc đời.
13.- Người
tu gặp những nghịch cảnh khổ đau, đầu tiên là cũng có những cảm nhận của một
con người, cũng biết buồn, biết đau, nhưng ngay đó liền tác ý, làm chủ ý để
buông xả, để hoán chuyển những nổi buồn, những khổ đau kia để không còn bị đau
khổ nữa, thì tâm hồn mới như đất được. Biết mà không biết là thế nào? Biết có cảm
nhận nhưng rồi tự điều khiển để tâm luôn luôn ở trong trạng thái thanh thản, an
lạc và vô sự. Nếu khi đối diện với nghịch cảnh, với khổ đau mà tâm trơ trơ
không biết gì, không có sự cảm nhận, thì hóa ra là vô tri như cục đá, như khúc
cây thì có lợi ích gì cho sự tu hành.
14.- Phải
nhàm chán những dục lạc thế gian, đó là bước đầu tiên của người muốn tu giải
thoát. Có nhàm chán thì tâm mới không còn ưa thích một cái gì. Dục lạc thế gian
chỉ là tạm bợ, vui đó rồi lại buồn đó. Người quyết chí tu thì xa lánh những dục
lạc này rất dễ dàng. Ta nhớ câu "xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo" thì
thân tâm mới an ổn. Không còn xem thân này là của ta nữa. Thân này làm được việc
gì có lợi ích cho người thì hãy làm; không còn kể thân này mập hay ốm, đẹp hay
xấu nữa; không còn nghĩ đến sự giàu sang, sung sướng cho riêng mình; không còn
muốn ăn ngon, mặc đẹp gì nữa. Cuộc sống thanh bần, ăn ngày một ngọ là đủ lắm rồi.
Tâm chỉ mong cầu một đạo giải thoát mà thôi; luôn quán xét xả tâm, ly dục ly ác
pháp, để tâm luôn được sống trong thiện pháp.
15.- Khi ý vừa
khởi niệm: "Mình làm việc cực quá, sao có nhiều người sướng quá", hoặc
"phần ăn của người sao đầy đủ, còn phần ăn của mình sao lại ít hơn của người?"
hay "người thì ăn cơm ngon, cơm nóng, sao mình lại ăn cơm cháy, cơm nguội".
Khi ý vừa khởi như vậy là phải nhận ra liền đây là tâm ganh tị, là tâm tham ăn,
thì ta phải điều động ý buông xả xuống. Ðó là những tâm ác, không nên để dính mắc
một chút xíu nào trong tâm ta. Nên nhớ rằng thực phẩm dư thừa cũng không được
phí phạm. Ở khâu nhà bếp là phải chịu thôi. Phải bình thản trước mọi việc, ai
cho gì ăn nấy, không đòi hỏi phải có đủ món này món kia. Ăn thì không khen
không chê. Ăn để mà sống, sống để mà tu là như vậy. Cuộc đời tu là khó lắm. Muốn
thấy được đạo phải đổi bằng bao nhiêu sức lực, bằng máu và nước mắt thì mới thấy
được chứ không phải đơn giản.
16.- Vào sống
trong Tu Viện thì mọi sự việc đều phải tùy thuận vào Thầy và cô Út, không được
tự mình quyết định làm một điều gì theo ý mình. Người tu phải biết khắc phục
tâm mình trong hạnh nhẩn nhục. - Phải an nhiên trước sự nóng lạnh và thiếu thốn
tiện nghi của các pháp thế gian, tức là khắc phục tâm mình theo pháp kham nhẫn.
- Và bình tỉnh tự tại trước những lời mắng nhiếc la rầy của cô Út là đã khắc phục
tâm mình trước sự sanh nhẫn. Hai hạnh nhẫn nhục trên nếu người tu tập tự điều
phục được thì con đường tu sẽ mở rộng thênh thang cho ta tiến bước.
17.- Trong bữa
ăn của Tu Viện hằng ngày thường có rau cải. Trong các rau cải có tất cả mùi vị
đắng, cay, ngọt, chát; mấy ai ăn mà đã ý thức được đó là những mùi vị đắng cay
của cuộc đời. Mà đã sanh ra làm thân người thì phải nếm đủ hết những mùi vị đó
thì mới hiểu được đời sống con người là khổ, là thật khổ để rồi nhàm chán, thì
mới bước vào con đường tu được. - Mùi vị đắng cay của một gia đình không hạnh
phúc, cha theo vợ khác, mẹ theo chồng khác, con cái phải bơ vơ. Ðó là cái khổ
nhất của con người. - Ðắng cay vì sự khắc nghiệt của một ông chồng, lúc nào
cũng tự cho mình là chủ một gia đình, người vợ thì phải phục tùng theo sự sai
khiến của ông chồng. Ðó cũng là cái khổ của con người. - Ðắng cay của đôi vợ chồng
không có sự nhường nhịn nhau, lời qua tiếng lại mắng chưởi nhau, đánh đập nhau.
Ðó là nổi khổ của con người. - Ðắng cay của những gia đình khi anh chị em không
thương yêu nhau; ai cũng nghĩ đến cái lợi riêng của mình, tranh hơn, tranh
thua. Cũng là một cái khổ của con người. - Ðắng cay vì sự sinh sống mà con người
phải hằng ngày dầm mưa giải nắng, tảo tần hôm sớm mới có được miếng cơm manh
áo, là nỗi khổ của con người. Người tu tập thấy biết sự đắng cay của cuộc đời
như vậy đó, để rồi nhàm chán mà xa lánh thế gian thì mới mong tu có tiến bộ được.
18.- Thầy và
cô Út đã từng dạy: "Nơi đâu có đạo đức là nơi đó có sự công bằng và công
lý". Vào sống trong Tu Viện, để được thích nghi với cuộc sống nơi đây, người
tu sĩ cũng như người cư sĩ nên tự khắc phục tâm mình, nên hòa đồng với mọi người,
đừng nên vì mình mà phiền hà đến nhiều người khác. Như việc ai vào Tu Viện thấy
có người khác có bình thuỷ nước nóng, rồi bắt chước cũng đòi Út cho bình thủy
nước nóng, có lúc số lượng người trong Tu Viện và khách đến tu học gần 50 người,
công việc nơi nhà bếp tất bật không hở tay. Mọi người cứ nghĩ rằng nhà bếp là
nơi phục vụ, nhưng thử hỏi phải nấu nước sôi cho 50 bình thủy thì còn thời gian
đâu để nấu cơm canh? Tu Viện không nhận người vào làm công quả, chỉ nhận người
vào tu học mà thôi. Họ thấy Út cực nên họ tình nguyện vào phụ bếp với Út, chứ
không phải làm công quả, vì vậy phải để cho họ có thì giờ tu tập. Việc phục vụ
bình thủy nước nóng chỉ dành cho người già yếu và bịnh đau mà thôi. Vào sống
trong Tu Viện là phải biết khắc phục tâm mình trước những khó khăn, đừng đòi hỏi
những gì quá đáng; thậm chí có người đòi hỏi Út cả pin đồng hồ là vật dụng cá
nhân khiến cho Út phải quay cuồng với công việc. Tu hành thì phải biết khắc phục
tâm mình chứ!
19.- Có những
cư sĩ về đây tu học xin thọ giới Bát Quan Trai rồi xin xả giới. Thọ giới và xả
giới thực ra chỉ là một nghi thức cho người cư sĩ tu tập một cuộc sống giống
như Ðức Phật trong một ngày hay nhiều ngày, tự khép mình trong giới luật của những
hạnh ăn, ngủ, độc cư, nhẩn nhục, tuỳ thuận và bằng lòng. Người tập tu đừng nên
quá quan trọng về những nghi thức trên, đó chỉ là hình tướng bên ngoài mà nên
quay vào trong để giữ giới cho trọn vẹn. Giới thì nên giữ chứ sao lại xả. Xả là
mất hết thiện pháp thì làm sao tâm thanh thản, an lạc được... Giới luật giữ được
hay không là do tâm, chứ nào phải do hình thướng thọ hay không thọ. Có những
người thọ giới mà vẫn phạm giới đó thì sao? Vì vậy người tu tập nên sống một đời
sống thoải mái, không làm khổ mình khổ người, luôn luôn sống trong thiện pháp
là đã bắt đầu sống một đời sống giới luật rồi đó vậy.
20.- Người
tu hành khi gặp những cảnh hàm oan thì tốt nhất là nên im lặng, không cần phải
phân bày, vì phân bày thì nào có ai biết cho, mà chỉ nên bình tỉnh tác ý để điều
phục tâm được an ổn, không xao động. Hơn nữa, những sự việc bên ngoài đều sẽ
tùy theo nhân quả thiện ác của người mà hiện bày rõ ràng. Người gây nghiệp ác sẽ
nhận chịu quả của nghiệp ác. Ta cứ bình thản không nói một lời, cố giữ tâm mình
để ác pháp không tác động vào tâm ta được, tức là ta đã chuyển được nhân quả. Từ
ác chuyển thiện, từ khổ chuyển vui. Do đó, ta đã thành công trên đường giải
thoát của Ðạo Phật. Nếu ta cứ phân bày thế này, thế kia với họ là ta đã tự gánh
nghiệp cho mình. Tốt nhất là ta nên điều phục tâm mình trước những nghịch cảnh
để vượt qua, để tâm luôn được an vui thanh thản, luôn được sống trong thiện
pháp. Tự tin nơi mình là tốt nhất.
21.- Người
tu tập, điều tốt nhất là luôn tỉnh thức trong chánh niệm, vì có tỉnh thức trong
chánh niệm thì mới có nhẫn nhục; có nhẫn nhục thì mới tùy thuận được; có tùy
thuận thì mới bằng lòng theo ý mọi người. Nếu không có tỉnh thức trong chánh niệm
thì con người khó mà nhẫn nhục. Ba hạnh trên liên kết với nhau, không có nhẫn
nhục thì làm sao có được tùy thuận và bằng lòng. Vì vậy, trước mọi sự việc, người
tu hành phải luôn luôn tỉnh thức trong chánh niệm, phải nhạy bén trước mọi tình
huống để điều phục tâm. Muốn được tỉnh thức trong chánh niệm thì phải thường
xuyên làm chủ cái ý.
22.- Ðối với
việc sống chết, người tu hành nên xem đó là một, chứ không phải là hai. Lúc nào
cũng nghĩ là mình đã chết rồi thì còn gì để mà ham muốn, còn gì để mà sợ hãi,
còn gì để mà hơn thua, tranh luận. - Sống thì trong thoải mái an vui, không lo
nghĩ tính toán một việc gì. - Chết thì cũng trong cái an vui, không lo âu sợ
hãi. Sống cũng vậy mà chết cũng vậy, có gì mà phải bận tâm. Người tu hành phải
biết như vậy và thực hành như vậy thì mới xả được tâm dục và các ác pháp, tu tập
mới có tiến bộ.
23.- Trên bước
đường tu hành đầy những gian an thử thách, có những chặng đường đầy chông gai
hiểm trở. Người tu hành phải từng bước từng bước tháo gỡ những khó khăn. Phải
có một ý chí kiên cường dũng mãnh, quyết chiến đấu không ngừng với nội tâm thì
mới có thể vượt qua được. Sống trong cảnh động mà tâm thấy lặng thì đó là giải
thoát. Còn chấp trong cảnh lặng tâm mới lặng được là còn dính mắc. Cái lặng đó
sẽ rơi vào định tưởng, do đó Út phải tạo cảnh la chó đuổi mèo giữa đêm khuya là
để mọi người được tỉnh thức trong lúc thiền. Mọi cảnh bên ngoài là động; muốn
cho tâm lặng không còn trạo hối thì phải dừng cái ý. Ý khởi lên muốn đi nơi này
nơi kia để tâm được yên thì phải tự biết nếu nơi đây mà không dừng được cái ý
thì đi bất kỳ nơi nào khác cũng không dừng được. Ngay chỗ gút mắc này, người tu
hành phải quyết chiến đấu để tháo gở những vướng mắc mà vượt qua. Quyết chỉ có
tiến chứ không lùi bước. Do nhiệt tâm quyết chiến như vậy thì tất nhiên sẽ chiến
thắng. "Thắng được tâm mình là chiến công oanh liệt nhất", đó là lời
Ðức Phật đã dạy.
24.- Trong
lúc thân bệnh đau nhiều, người tu tập nên tác ý với sự nhiệt tâm để diều phục
tâm, để giảm bớt sự đau đớn. Ðừng vì thân đau bệnh mà nản chí, khiến cho bi
quan rồi nhịn ăn để thân mau hoại diệt. Nên để thân ra đi trong sự bình thường,
vì ép chế thân nhịn ăn để mau chết là ức chế thân và tâm. Ra đi trong sự đau đớn
đói khát như vậy thì làm sao có sự thanh thản giải thoát được. Nên để cơ thể
bình thường với sự bình thường của nó; vẫn ăn uống đầy đủ đến khi nào hết duyên
thì tự nó hoại diệt, ra đi trong sự an nhiên như vậy mới gọi là sự giải thoát.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét