Thứ Sáu, 16 tháng 6, 2023

290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

 

290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như liên hệ :

Tu viện Chơn Như (Cổng số 2) Số 4 đường Chùa Am, khu phố Gia Lâm, phường Gia Lộc, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam.

Email: chonnhu2@gmail.com

Ban kinh sách Tu viện Chơn Như:

Điện thoại: 0276.3892.911

(07h-10h, 14h-17h hàng ngày),

DTDĐ : 0965.795.589.

***

01-ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT

https://thanhson22.blogspot.com/

02-TÌM HIỂU SỰ THẬT.

https://thanhhuy23.blogspot.com/

03-TÌM HIỂU CHÁNH PHÁP

https://tuanboya-z.blogspot.com/

04-ĐẠO ĐỨC GIẢI THOÁT

https://tricang23.blogspot.com/

05-TU TẬP GIẢI THOÁT

https://vietboy23.blogspot.com/

06- NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT PHÁP

https://tuanboysport.blogspot.com/

07-SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH

https://tricangsport.blogspot.com/

08-NGƯỜI DỰNG LẠI CHÁNH PHẬT PHÁP

https://huyhoang22.blogspot.com/

09-NHỮNG BỨC TÂM THƯ

https://thanhhai22.blogspot.com/

10-GIÁO ÁN ÐƯỜNG LỐI TU TẬP ÐẠO PHẬT

https://thanhthien22.blogspot.com/

11-KẾT TẬP PHÁP BẢO CỦA ĐỨC TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC:

PHẦN 1: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 515

https://tricang19.blogspot.com/

PHẦN 2: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 510.

https://tuongthuc.blogspot.com/

PHẦN 3: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 500.

https://phapbaovn.blogspot.com/

PHẦN 4: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 528.

https://tambatdongvn.blogspot.com/

PHẦN 5: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 510

https://kettapphapbao5.blogspot.com/

PHẦN 6: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 500

https://kettap6.blogspot.com/

12-TÁC Ý ĐUỔI BỆNH

 https://kettap5.blogspot.com/ 

13-LỚP NGŨ GIỚI NÂNG CAO

https://ythucluc.blogspot.com/

14- THẾ GIỚI TƯỞNG

https://tuongam.blogspot.com/

15-PHÁP TƯỞNG

https://phaptuong.blogspot.com/

16-NGHIỆP & TỪ TRƯỜNG.

https://nghieptutruong.blogspot.com/

17-TU TẬP BUÔNG XẢ

https://tuviencn.blogspot.com/

18-TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC (VIDEO)

https://www.youtube.com/hashtag/thichthonglac

 

289-SỐNG LÀ TU

 

289-SỐNG LÀ TU

Hỏi: Kính thưa Thầy, Sống là tu, tu là sống như thế nào?

Đáp: Thường người ta quan niệm tu hành, khác với cuộc sống. Khi tu phải lìa xa cuộc sống thế gian, không có sống chung với người thế gian, nghĩa là khi đi tu thì phải cắt ái, ly gia, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả sự nghiệp, lìa xa gia đình, những người thân, ngay cả cha mẹ và anh em dòng họ, v.v...Người tu hành phải thực hiện các pháp môn hằng ngày như: ngồi thiền, tụng kinh, niệm chú, niệm Phật, lạy hồng danh chư Phật ,v.v…
Những pháp môn này không phải của đức Phật dạy mà của ngoại đạo khéo lồng vào giáo pháp của đức Phật để lừa đảo tín đồ Phật giáo.

 Bước vào Đạo Đế tức là bước vào một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật. Mà Đạo Đế là pháp hành của đạo Phật dạy chúng để sống trong cuộc sống với mọi người thì làm gì có dạy chúng ta ly gia cắt ái, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ gia đình sự nghiệp, v.v…Khi bắt đầu vào tu theo pháp môn của đạo Phật thì Ngài dạy chúng ta phải sống đúng chánh kiến, nghĩa là hằng ngày chúng ta phải thấy và hiểu biết: Cái nào thiện thì biết là thiện, cái nào ác thì biết là ác; biết thiện thì tăng trưởng, vì thiện không làm khổ mình khổ người; biết ác thì ngăn ngừa và diệt chúng để không làm khổ mình khổ người. Người thấy và biết sống như vậy là tu tập chánh kiến.

 Sống không làm khổ mình, khổ người là tu, mà người tu tập phải sống có chánh kiến như vậy, mà sống có chánh kiến như vậy tức là tu tập. Như vậy đạo Phật không có dạy chúng ta tụng kinh, ngồi thiền, trì chú, cúng bái, tế lễ v.v...mà dạy chúng sống đúng Chánh kiến, sống đúng Chánh tư duy, sống đúng Chánh ngữ, sống đúng Chánh nghiệp, sống đúng Chánh mạng, sống đúng Chánh tinh tấn, sống đúng Chánh niệm và như vậy chúng ta sẽ sống đúng Chánh định tức là Chánh thiền định mà Chánh thiền định, tức là bắt đầu từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền, mà Sơ Thiền tức là ly dục ly ác pháp, mà ly dục ly ác pháp tức là Chánh kiến.

 Như vậy, không phải sống là tu hay sao? Và tu là sống không làm khổ mình khổ người thì có đúng không? Cho nên thiền định là cuộc sống mà tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, chứ không phải thứ thiền định lìa cuộc sống “Ngồi thiền”.
Sự tu tập của đạo Phật không lìa cuộc sống, kẻ nào lìa cuộc sống ngồi thiền, tụng kinh, v.v...thì tu hành không bao giờ có sự giải thoát. Xa lìa cuộc sống mà sống phạm giới, phá giới, thì có khác gì cuộc sống của người thế gian, thì người đó tu không đúng đạo Phật, mà đang tu theo ngoại đạo. Tu theo ngoại đạo thì sẽ rơi vào tà kiến, tà niệm, tà thiền, tà định, thì đời đời kiếp kiếp sẽ trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Trích Đường Về Xứ Phật tập III)


288-THƯƠNG YÊU VÀ THA THỨ.

 

288-THƯƠNG YÊU VÀ THA THỨ.

Mỗi sáng thức dậy hoặc khi nào rảnh rang, chúng ta thầm ước nguyện trong đầu câu : “Luông sống thương yêu và tha thứ”. Thương yêu và tha thứ chính là ý nghĩa chính của đạo đức nhân bản nhân quả. Thương Yêu và Tha Thứ giúp cho tâm hồn luôn thanh thản và đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người.

• Ước nguyện rằng ngày hôm nay những người tôi gặp dù ác hay thiện tôi đều thương yêu và tha thứ và họ cũng thương yêu và tha thứ cho tôi và những người khác.

• Khi tình cờ chúng ta thấy một người đánh một người, biết rằng mình không giúp hay làm gì được thì chúng ta hãy ước nguyện cho họ hãy thương yêu và tha thứ cho nhau.

• Khi ai nạt nộ, sân giận, lớn tiếng hay chửi mắng mình thì hãy nhắc câu “Hãy thương yêu và tha thứ”

• Khi ai làm trái ý mình hay làm những gì mình không thích thì mình cũng nhắc tâm sẽ thương yêu và tha thứ.

• Ước nguyện rằng tất cả mọi người trên thế gian này đều sống thương yêu và tha thứ.

Mục đích của phương pháp này là trau dồi tâm Từ Bi Hỷ Xả cho chính mình và cho người. Khi tâm của người ước nguyện thanh thản sẽ giao cảm được với tất cả mọi người mà mình ước nguyện để chuyển hóa những người đó. Do vậy tâm của người sân hận, hận thù sẽ chuyển đổi thành thương yêu và tha thứ.

Nếu như tình cờ qua TV, radio, internet, quảng cáo, báo chí,v.v… những người ngày hôm đó có ý trả thù, gây chiến tranh, chuẩn bị đi cướp bóc, chuẩn bị làm gì đó bạo lực,v.v… nghe hay thấy được câu "Hãy Sống Thương Yêu Và Tha Thứ" họ sẽ suy nghĩ lại hành động của mình và có thể thay đổi ý.

Do nhắc tâm mỗi ngày sẽ thành một nội lực Ý THỨC LỰC đến lúc nào đó ai giận, chửi mắng hay đánh đập, giết mình, nói lời nói hay làm điều gì trái ý, nghịch lòng mình …tâm mình sẽ BẤT ĐỘNG và THA THỨ thật sự thì sự tu tập viên mãn thực sự.

Khi quen dần với phương pháp này, chúng ta có thể trải rộng lòng yêu thương và tha thứ ra cả thế giới, khắp hành tinh ta đang sống: Ví dụ: Khi rãnh chúng ta ngồi nhắc thầm trong đầu rằng: "Ta sẽ luôn yêu thương và tha thứ cho tất cả mọi người và muôn loài vật; luôn cung kính và tôn trọng tất cả mọi người không phân biệt già trẻ, dân tộc; luôn sống nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng với mọi ý kiến, lời nói, yêu cầu và việc làm của người để người vui mình vui". Đầu tiên ta nguyện sẽ sống đúng như câu trên với tất cả mọi người trong gia đình. Sau đó, sẽ trải rộng lòng yêu thương và tha thứ ra đến tất cả hàng xóm, mọi người xung quanh khu ta ở, sau đó trải rộng ra khắp quận huyện, tỉnh, thành, khắp nước Việt Nam, đến các nước láng giềng, khắp tất cả các nước thuộc Châu Á. Sau đó sẽ trải rộng tiếp đến mọi dân và các loài vật ở các nước thuộc Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, Châu Phi và khắp tất cả các đảo, bán đảo, quần đảo lớn nhỏ trên hành tinh này. Lòng yêu thương và tha thứ của ta sẽ phủ trùm khắp hành tinh này, luôn sống để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mình cho người và muôn loài vạn vật khác.

Thường thì ai cũng hiểu nên sống Thương Yêu và Tha Thứ nhưng tại sao khi gặp việc thì tâm vẫn sân giận khi ai làm trái ý nghịch lòng, khi ai đó đánh đập giết hại mình, trộm cắp đồ của mình, nói dối lừa gạt, nói xấu, nói chỉ trích, chê bai mình,…Đó là vì mình không áp dụng phương pháp nhắc tâm (Tự Kỷ ám thị).

Chính nhờ nhắc tâm mỗi ngày hay khi gặp sự việc trên thì dần dần tâm sẽ được ta huấn luyện sống với những đức hạnh thiện. Phương pháp nhắc tâm đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được. Không áp dụng phương pháp nhắc tâm thì chúng ta sẽ bị chìm trong biển khổ ác này. Do vậy xin các bạn đừng quên phương pháp nhắc tâm. Đó là chìa khóa của mọi thành công trong cuộc sống.

Và rồi bạn sẽ chiêm nghiệm ra một điều chính Lòng Thương Yêu và Tha Thứ là chìa khóa giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống.



287-ĐỨC THIỂU DỤC TRI TÚC

 

287-ĐỨC THIỂU DỤC TRI TÚC

Sống thiểu dục tri túc là sống ít muốn biết đủ.

Ít muốn là ít ham muốn, chỉ muốn những gì cần thiết tối thiểu phục vụ đời sống cho mình thôi, không muốn dư, không ham muốn mua sắm nhiều đồ, linh tinh, không ham muốn mua đồ để chưng bày, để làm đẹp, để cho sang, cho mát, cho đúng phong thủy, cho đúng màu, cho đúng kiểu, đúng văn hóa, họ không cần nhà cao rộng lớn, không cần đứng tên sở hữu tài sản, không chạy theo những máy móc, thiết bị có công nghệ hiện đại, ...

Họ không cần giàu sang, chỉ đủ sống là được, không tham tiền bạc, không tham danh lợi, không dính mắc vào chuyện tình cảm, sống một mình thanh thản an lạc và vô sự.

Đối với người tu hành, họ thích sống một mình, chỉ ăn ngày một bữa, không cất giữ tiền bạc, không nằm giường cao rộng lớn, chỉ ở một cái thất nhỏ 12 m2

Tóm lại người ít muốn biết đủ họ chỉ cần vài bộ đồ để mặc và những thứ cần thiết phục vụ đời sống hằng ngày, trong nhà họ thật đơn giản, trống thoáng, không có gì ngoài cái bàn nhỏ, cái ghế nhỏ, cái giường vừa đủ nằm, không có vật gì chưng bày, không có vật gì treo trên tường,...

Sống biết đủ. Khi biết đủ thì con người sống sẽ có thời gian nghĩ đến người khác; biết giúp đỡ và cho đi những gì mình có, mình dư; sống không keo kiệt, bủn xỉn; không tham lam tích trữ, để dành hay gom góp mọi thứ về riêng cho mình. Cách sống biết chia sẻ là cách diệt lòng ích kỷ, bủn xỉn hẹp hòi. Đức này là đức thiểu dục tri túc.
Sống biết hài lòng với cuộc sống: Mời bạn đọc câu chuyện sau.

Một người chủ giàu có nhìn thấy một thợ câu cá đang nằm lưởi biếng cạnh thuyền câu, mồm ngậm tẩu thuốc.“Tại sao anh không làm việc?”, người chủ hỏi.

“Vì tôi đã câu đủ cho hôm nay rồi,” người thợ trả lời.

“Thế tại sao anh không câu thêm vài con nữa?”

“Câu thêm thì tôi sẽ làm gì với chúng?”

“Anh có thế kiếm thêm tiền,” người chủ nói, “Với số tiền đó, anh có thế mua một cái động cơ mới cho chiếc thuyền của mình, rồi đi đánh cá ở vùng biển xa hơn. Anh sẽ đánh bắt được nhiều cá hơn và kiếm nhiều tiền hơn nữa. Sau đó, anh có thể mua thêm một chiếc thuyền nữa, thuê một đội đánh bắt đi theo mình. Và anh sẽ trở nên giàu có, giống tôi.”

“Và, khi đó tôi sẽ làm gì?”

“Anh có thể thảnh thơi tận hưởng cuộc sống, làm những gì mà anh yêu thích.”

“Vậy, ông nghĩ tôi đang làm gì đây?”, người thợ câu ngước nhìn và hỏi.


286-ĐỨC TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM

 

286-ĐỨC TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM

A/ Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu danh từ tĩnh giác trước. Giác ở đây là "GIÁC NGỘ", mà GIÁC NGỘ có nghĩa là phân biệt biết rõ các pháp nào ác và các pháp nào thiện, giác ngộ ra chân lý, giác ngộ ra sự giải thoát, giác ngộ ra con đường đem đến sự giải thoát, giác ngộ ra con đường thiện, giác ngộ ra nên sống ngăn và diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện, giác ngộ ra cuộc đời này là "khổ", giác ngộ ra nguyên nhân của cái khổ là "lòng ham muốn", giác ngộ ra con đường đưa đến hạnh phúc hết khổ đau là "Bát Chánh Đạo", giác ngộ ra trạng thái hết khổ là "tâm bất động thanh thản an lạc và vô sự", giác ngộ ra lý vô thường của các pháp thế gian, không có gì là ta, là của ta là bản ngã của ta, giác ngộ ra nhân quả,...
 Do vậy muốn giác ngộ thì con người phải "quán xét" hoặc "suy xét", chứ không phải tự nhiên tin đại, tin bừa thiếu trí tuệ tư duy. Do quán xét hoặc suy xét những điều được nghe, được thấy đem đến lợi ích cho mình, cho người, và cho các loài chúng sinh khác cho nên tin rằng con đường này là con đường đưa đến an vui và hạnh phúc cho mình, cho người và cho muôn loài vạn vật khác.
 Tĩnh ở đây là sự định tĩnh, sự bình tĩnh, sự im lặng sáng suốt.
 Người có đức tĩnh giác là người luôn bình tĩnh, định tĩnh, im lặng sáng suốt luôn tư duy quán xét mọi việc có làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh hay không.
 Còn chánh niệm là những niệm thiện, niệm thiện là niệm không làm khổ mình, khổ người và khổ các loài vật khác. Niệm theo hành động sống của các bậc thánh như đức Phật, các vị thánh tăng, của những lời Phật dạy, của giới luật, niệm sống bảo vệ và giữ gìn lý giải thoát "tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự."
 Sau khi quán xét tư duy thì họ chỉ sống trong thiện pháp nghĩa là sống trong chánh niệm để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mình, cho người và muôn loài vạn vật. Do vậy gọi là tĩnh giác chánh niệm. Chánh niệm luôn đi sau tĩnh giác là vậy.
 Trước mọi việc xảy ra trong cuộc sống, người có tĩnh giác chánh niệm luôn sáng suốt, bình tĩnh giải quyết công việc từ nhỏ đến lớn rất chu đáo, thấu suốt để không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Do vậy tĩnh giác chánh niệm có rất nhiều lợi ích:

1.   Tĩnh giác là tỉnh thức luôn luôn sáng suốt nhận xét tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh chúng ta một cách đúng với chánh pháp.

2.    Tĩnh giác là tâm an vui.

3.   Tĩnh giác là tâm bình tĩnh trước các ác pháp và các cảm thọ luôn luôn sáng suốt quan sát từng các đối tượng (sáu trần) tiếp xúc sáu căn (mắt thấy, tai nghe…) để giúp cho người tu hành không dính mắc, nên nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng một cách dễ dàng để tâm được an lạc, thanh thản và vô sự.

4.   Tĩnh giác là tâm sáng suốt chủ động biết rõ từng hành động thân, miệng, ý của mình trước khi làm, nghĩ và nói những cái gì.

5.   Tĩnh giác là thiện pháp không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai.

6.    Tĩnh giác là thiện pháp, mà thiện pháp là chuyển ác pháp nên người tu tập tỉnh giác ít xảy ra tai nạn.

7.    Tĩnh giác lá một pháp xuất thế gian, giúp cho con người luôn sống trong thiện pháp và chân lý giải thoát.

8.  Tĩnh giác là một giới đức trong pháp môn QUÁN VÔ LẬU của Phật giáo nên nó có phương pháp tu tập, vì thế nó có sức gạn lọc tâm tư thanh tịnh không còn các ác pháp và trong khi tu tập nó còn có một sức bình tĩnh kỳ lạ khi đứng trước các ác pháp nó rất định tĩnh, nếu tu tập đúng đặc tướng.

9.  Tĩnh giác chánh niệm trong kinh Phật dạy dùng sức “BÌNH TĨNH” quan sát phân biệt các pháp nào thiện để tăng trưởng và ngăn chặn, diệt trừ các pháp nào ác để “XẢ TÂM”, đó là để giúp tâm bất động trước các pháp ác; là để giúp tâm thanh thản, an lạc và vô sự; đó là để bảo vệ CHÂN LÝ nơi bất sinh bất diệt của loài người.

10.  Tĩnh giác chánh niệm dùng để tu tập TỨ CHÁNH CẦN xả tâm phần thô.

Chúng ta hãy cùng xem vài ví dụ dưới đây về đức tĩnh giác chánh niệm:

1.     Khi đi đường, chúng ta nên không những nhìn xuống đất mà còn phải chú ý xung quanh, lắng nghe những tiếng động xung quanh. Chứ không phải nói phòng hộ sáu căn là nhắm mắt, bịt tai, bóp mũi, bịt miệng, cột tay, cột chân hoặc không cho ý thức khởi niệm gì.

2.  Nếu tĩnh giác thì khi đi chúng ta sẽ không vấp đá, lọt ổ gà bị té, hoặc giẫm đạp lên chúng sanh và các loài cây cỏ dưới đất.

3.  Đồng thời nếu tĩnh giác đang đi, ta nghe tiếng đập đập phía trước thì phải nhìn xem là gì, có khi đó là một công trình xây dựng, họ đang gỡ mái nhà xuống, ta cứ lo đi nhìn xuống đất, bịt tai lại, có nghe cũng không để ý, thì khi đi ngang qua công trình, rũi không may, mái ngói rớt xuống đầu, xuống chân thì lỗi tại ai. Nếu ta có tĩnh giác thì khi ta thấy có công trình đang xây dựng, ta đã tránh xa qua đường khác đi.

4.  Khi cầm nắm bất cứ vật gì, cũng tĩnh giác xem trên vật đó có các loài vật nhỏ côn trùng như kiến, gián,... hay không. Nếu có thì ta nhẹ nhàng đem chúng ra ngoài.

5.     Khi để vật gì lên mặt bàn thì cũng nên tĩnh giác xem trên mặt bàn đó có các loài vật côn trùng hay không, kẻo ta để vật đó đè lên các loài chúng sanh khiến chúng bị thương hoặc chết.

6.  Khi nằm, ngồi, đứng cũng vậy ta đều phải tĩnh giác xem xét, ở trên ghế, trên giường, dưới đất có các loài côn trùng hay không, kẻo ta vô tình là hại chúng.

7.  Khi đi, ngoài việc nhìn xuống đất tránh giẫm đạp các loài vật, chúng ta cũng nên chú ý những vật khác ở dưới đất có khả năng gây hại cho người như đinh, vỏ chuối, dây điện treo lòng thòng từ trên xuống,... nếu có ta nên lượm đinh ốc lên, gạt vỏ chuối vào tường, dùng cây dài móc dây điện qua hướng an toàn để không chạm vào người và xe chạy ngang.

8.   Khi lái xe 2 bánh cũng vậy, ngoài việc tĩnh giác khi lái xe nhìn ngang, dọc, đôi khi chúng ta cũng phải nhìn xuống dưới đường để tránh ổ gà, tránh đinh, ốc, và nhất là phải làm chủ tốc độ không chạy nhanh quá tốc độ cho phép.

9.   Khi đi bộ đến ngã tư, phải nhìn tứ phía có xe không rồi hả băng qua, đừng nghĩ rằng mình là người đi bộ, tất cả xe đều phải tránh. Nếu mình lái xe, dù là mình đang trên đường ưu tiên đèn xanh, cũng phải xem xe 2 bên kia có đâm ra hay không để tránh hoặc nhường họ. Đó là người có tĩnh giác.

10.  Khi đi hoặc lái xe ngang qua con hẻm, cũng phải tĩnh giác lắng nghe có tiếng xe chạy đâm ra hay không để tránh họ, đừng nghĩ xe phải tránh người đi bộ, hoặc xe đó phải tránh xe mình vì mình đang trên đường ưu tiên hơn.

11.   Khi đang lái xe, muốn chuyển sang lane khác để đi thì không những phải bật đèn sang lane, mà còn phải nhìn kiếng chiếu hậu và quay đầu nhìn ra sau. Có khi xe sau đang ở tầm khuất của kính chiếu hậu thì nếu không nhìn ra sau sẽ không thấy xe đó. Đến khi chuyển lane thì mới thấy đã quá muộn, may thì không có gì nhưng sẽ bị người tài xế kia la cho một trận, hoặc mình đã làm cho họ hết hồn hết vía, sợ hãi, đó là mình đang làm khổ họ.

12.  Khi ăn cơm nóng, uống canh hoặc nước nóng cũng phải tĩnh giác, không nên có thói quen cứ ăn, cứ uống không để ý gì đến cái nóng của cơm, canh hoặc nước, khi ăn uống xong thì đã phỏng lưỡi, phỏng miệng rồi.

13.  Khi đang làm bếp, sắc rau, mà cứ lo nghĩ việc này việc nọ, dao cắt vào tay không hay biết, đó là do thiếu tĩnh giác.

14.   Khi cầm thau nước gần đầy đi xuống cầu thang, thì phải tĩnh giác nhìn ngó tứ phía, xem có vật cản hay không để tránh, đồng thời nhìn thao nước có nghiêng hay không, kẻo đổ ra cầu thang, ra sàn nhà là làm khổ mình phải lau sạch nước đổ,...

15.  Khi làm việc gì, người tĩnh giác luôn quán xét mọi việc có nằm trong khả năng của mình không, khi nào làm, ai làm, ai kiểm tra, nếu có không như ý muốn thì như thế nào, có khả năng về tài chánh hay không? mất bao nhiêu thời gian,...

16.    Khi các pháp đến, người có tĩnh giác phải luôn quán xét xem pháp đó có phải là dục hay ác pháp hay không, có làm khổ mình, khổ người, khổ các loài vật hay không. Nếu có thì không làm, nếu khổ thì nói và làm.

17.   Bác sĩ mổ xong mà để quên dụng cụ hoặc bông thấm máu trong người bệnh nhân là thiếu tĩnh giác.

18.   Người thợ sửa xe, khi tháo ra có 12 con ốc, lắp lại còn dư một con là biết thiếu tĩnh giác.

19.    Học sinh mặc dù học giỏi, làm bài kiểm tra xong, tất cả đều đúng, nhưng quên ghi tên mình lên giấy kiểm tra, cũng là thiếu tĩnh giác.

20.   Người em gái nhờ mình rước cháu học ở nhà trẻ về dùm, chiều nay lúc 4h. Mình lo làm việc của mình quên mất chuyện đi rước cháu, để cháu một mình cuối cùng ở lại trường, làm cho bé lo, khóc. Cô giáo phải gọi điện báo cho mẹ biết, mẹ giật mình phải gọi điện về nhờ người khác đi đón. Đó là mình thiếu tĩnh giác.

21.   Người có tĩnh giác, trước khi bước vào chùa hoặc tu viện tu tập giữ hạnh độc cư, thì phải thông suốt những gì cần thông suốt, nghĩa là đã thông suốt đường lối tu tập chưa, hiểu rõ các pháp hành chưa, khi nào áp dụng chúng, khi nào không, đã hiểu rõ chân lý giải thoát là gì chưa? Đã giải quyết chuyện gia đình chưa?... Bởi vì khi đã giữ hạnh độc cư thì không thể đọc sách tiếp duyên thưa hỏi nữa. Người chưa thông suốt sẽ tu sai, mất thời gian, có khi dẫn đến bị bệnh nhiều hơn, bị tẩu quả nhập ma,...

22.     Người có tĩnh giác luôn dùng ái ngữ, khi nói luôn nói lời thành thật, ôn tồn, nhẹ nhàng, lịch sự, không nói lớn tiếng, lời nói hung dữ, thêu dệt, lật long, ly gián chia rẻ, nói xấu, nói cái sai, cái lỗi,...của bất kỳ ai.

23.     Người có tĩnh giác làm việc gì cũng nhẹ nhàng, đặt vật gì lên bàn, vào đâu cũng nhẹ nhàng, không để lớn tiếng làm động người khác, làm họ giật mình, làm phiền mọi người vì tiếng động do mình gây ra: đi mạnh, dậm chân, lê dép, đóng cửa cái rầm, khua nồi muỗng trong bếp loang choang,... 

24.     Người có tĩnh giác khi làm việc gì đều từ tốn, chậm rãi khoan thai, nhìn trước được những nguy hiểm để tránh từ mọi việc nhỏ nhặt hằng ngày, không để bất kỳ điều gì không tốt xảy ra với mình, với người và các loài vật khác. Người có tĩnh giác chánh niệm luôn điềm đạm tư duy suy xét mọi vấn đề một cách cẩn thận, không vội vàng hấp tấp, làm ẩu.  

25.     V.v...

Mỗi ngành nghề trong cuộc sống đều cần đức tĩnh giác chánh niệm để sống không làm khổ mình, khổ người và khổ các loài vật.
 Do vậy đức tĩnh giác chánh niệm rất quan trọng trong đời sống và trong đạo, chúng giúp cho con người từ si mê trở nên sáng suốt, từ thiếu cẩn thận trở nên luôn tĩnh giác, quan sát nhìn rõ mọi việc. Không vội vàng hấp tấp, bình tĩnh từ tốn giải quyết mọi việc ổn thỏa vừa lòng mọi người, không tổn thương đến ai.
B/ Trong ngũ triền cái có si triền cái là hôn trầm thùy miên, cái buồn ngủ, cái ham ngủ. Chính nó làm cho mình ngu, lười biếng, không siêng năng, làm cho mình không sáng suốt, làm cho mình không có trí tuệ, làm cho mình là người sống thiếu đức thiếu hạnh, tham ăn, tham ngủ,...
Dùng định chánh niệm tỉnh giác để phá hôn trầm thùy miên, tu định chánh niệm tỉnh giác thì phải đi kinh hành, chứ không phải ngồi yên một chổ. Đi kinh hành ở đây không có nghĩa là tập trung liên tục vào tĩnh giác đó, tĩnh giác vào bước đi của mình. Vì sức tỉnh thức của mình chỉ có 1 phút à, mà bây giờ mình đi hoài cho hết buồn ngủ, mình cứ tập trung như vậy thì ức chế nó, làm cho mình sanh loạn tưởng, tu như vậy là sai.
Do chổ tu tập không đúng cách, mình đi kinh hành, nên đi một cách thư giản của mình và mình chỉ nhắc: “cái hôn trầm này phải rời khỏi cái thân này, không được ở đây ” đi với cách không được tập trung vào bước chân đi. Chủ yếu ở đây là mình làm sao cho cái thân mình động để không buồn ngủ, và thường xuyên mình nhắc “cái hôn trầm hãy đi đi, không được ở đây”. Nhắc như vậy, nhưng mà phải đi, chứ không phải ngồi đó. Nhắc và đi, đừng tập trung vào bước chân vì sức tỉnh thức của mình chưa đủ 30 phút hoặc 1 tiếng động hồ để hết hôn trầm, ở đây mình chỉ đi tới đi lui, đi qua đi lại, có lúc mình thấy khỏe thì mình nhắc: “đi kinh hành tồi biết tôi đi kinh hành” Cứ đi, cứ động thân, miển sao phá cho sạch cái hôn trầm này.
Có lúc khi đi mình dùng định vô lậu, suy tư về tâm si, về hôn trầm thùy miên, si là ngu, là lười biếng, là làm cho mình không sáng suốt, làm cho mình không có trí tuệ, làm cho mình là người thiếu đức thiếu hạnh, tham ăn, tham ngủ, do đó phải đi, đi đến cho hết rồi mới không đi, không được nghe theo lười biếng mà nằm xuống. Ra lệnh như vậy mạnh lên, làm cho nghị lực của ta mạnh lên trên từng bước đi.
Do vậy khi chúng ta dùng pháp hướng, nhiệt tâm, tinh cần khắc phục thì cái hôn trầm thùy miên sẽ hết.
Khi bị hôn trầm thùy miên thì bỏ hết những pháp khác, chỉ lấy định chánh niệm tỉnh giác mà phá 
cho được hôn trầm thùy miên. 

285-ĐỨC IM LẶNG NHƯ THÁNH

 

285-ĐỨC IM LẶNG NHƯ THÁNH

Người sống với đức im lặng như thánh là người biết tư duy suy nghĩ trước lời nói của mình. Luôn quán xét xem những lời nói đó có đem đến sự đau khổ, buồn bực, tức giận cho mình và cho người hay không. Nếu có thì không nói im lặng, còn không thì mới nói.

Người sống với đức im lặng như thánh là người có đức nhẫn nhục. Bởi vì trước lời nói mạt sát, mạ lỵ, chê bai, chỉ trích, nói xầu, đánh đập, tra tấn, giết hại, hâm dọa, nói oan ức, v.v… người có đức im lặng như thánh biết rằng chỉ cần mình mở miệng ra là sẽ như đổ dầu vào lửa sẽ làm cho người kia phẫn nộ hơn, giận dữ hơn, hung tợn hơn. Chính điều đó sẽ làm khổ người kia, làm cho lòng hận thù của họ càng mãnh liệt sẽ gây hại đến họ, làm họ mất tự chủ sẽ phản ứng tự vệ rất là khó đoán trước chuyện gì xảy ra.

Do hiểu rõ những hoàn cảnh trên, người có đức im lặng như thánh nhẫn nhục im lặng để làm cho cơn thịnh nộ của người khác giảm xuống, chấp nhận lỗi do mình gây ra hoặc nói lời nói xin lỗi, lời nói nhận lỗi với người khác, vui vẻ bắt tay, đền bù thiệt hại, không truy cứu, dẫn nhau ra tòa tố tụng nữa.

Tất cả những gì xảy ra giữa người và người hằng ngày đều là nhân quả, người thấu suốt nhân quả biết rõ cái quả ngày nay gặp chính là đã từng gieo nhân trong quá khứ, cho nên chấp nhận mọi nghịch cảnh đến một cách thanh thản an vui, không vì bất cứ lý do nào mà phẫn nộ hay giận dữ. Chỉ im lặng chấp nhận tất cả để có thể chuyển đổi nhân quả từ khổ đau thành an vui trong hiện tại và mai sau.


284-CÁCH CHUYỂN HOÁ NHÂN QUẢ/ 3

 

284-CÁCH CHUYỂN HOÁ NHÂN QUẢ/ 3

Đáp III: Đức chấp nhận nhân quả có nghĩa là biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng dù bất cứ một nhân quả nào xảy đến. Đức chấp nhận nhân quả thì phải dùng cả ba đức này thì mới gọi là chấp nhận nhân quả, thiếu một đức thì không thành đức chấp nhận nhân quả. Đây là một câu chuyện nói về đức chấp nhận nhân quả:

“Có một người đánh cá bắt được một con rùa biển. Ông ta đối xử với nó như con của mình. Thế nhưng con rùa biển không ăn uống và cũng không động đậy. Lúc nào nước mắt nó cũng giàn giụa.

Con rùa van xin người đánh cá và nói: - Trái tim tôi ở biển cả, nơi đó có nhà của tôi, có niềm vui của tôi. Xin ông hãy thả tôi ra.

Nhưng người đánh cá không thể thả nó được bởi vì ông rất yêu nó. Một thời gian sau, thấy con rùa yêu quý của mình ngày càng tiều tụy, người đánh cá đau lòng, và quyết định thả nó về với biển.

Một năm sau, vào một ngày nọ, bỗng nhiên ông ta nghe có tiếng gõ cửa, mở cửa ra ông thấy đó chính là con rùa mà ông thả.

Người đánh cá liền hỏi: - Con đã có hạnh phúc rồi, lại còn trở lại đây làm gì?

Con rùa liền đáp: “Hạnh phúc của tôi là do ông mang lại, tôi không thể quên ơn đó.”

Người đánh cá nói: “Thôi con đi đi, chỉ cần con hạnh phúc là được rồi, từ sau không cần phải đến thăm ông nữa.”

Con rùa biển lưu luyến không muốn rời xa ông. Và một tháng sau người đánh cá thấy con rùa quay lại.”

Đức chấp nhận nhân quả tức là LÒNG YÊU THƯƠNG. Ở đâu có lòng yêu thương là ở đó có sự chấp nhận nhân quả. Cho nên chúng ta chấp nhận nhân quả vì chúng ta yêu thương mình, yêu thương người, yêu thương tất cả chúng sinh và ngay cả hoàn cảnh xảy ra chúng ta vẫn yêu thương.

Hỏi 2: Đức vượt qua nhân quả có phải là đức làm chủ nhân quả hay không?

Đáp: Không, đức vượt qua nhân quả và đức làm chủ nhân quả Thầy đã giảng ở trên, nó không phải là một đức. Để Thầy chứng minh thêm đức nhân quả vượt qua bằng một câu chuyện buông xả: “Thổ dân Phi Châu có một tuyệt chiêu vô cùng thông minh khi đi săn khỉ đầu chó. Họ để thức ăn mà Khỉ thích, đặt vào miệng một cái bình lớn và đề cho khỉ đầu chó núp ở chỗ xa nhìn thấy. Khi họ đi xa rồi thì khỉ đầu cho vui mừng nhảy tới, dùng tay thò vào bình, quặp lấy thức ăn, nhưng do miệng bình rất nhỏ, khi tay của nó nắm thành nắm thì rất khó rút ra, lúc bấy giờ người thợ săn chỉ việc bình tĩnh đến bắt con vật, mà không lo nó bỏ chạy. Do khỉ đầu chó không thể bỏ thức ăn khoái khẩu của mình, nên càng sợ hãi và vội vàng nắm chặt lấy thức ăn, và càng không thể rút tay ra khỏi miệng bình.

Có người nghe câu chuyện liền thốt lên: “Thật là tuyệt diệu”. Chiêu này tuyệt ở chỗ con người đem tâm lý của mình suy xét tới các loài động vật khác. Kỳ thật con khỉ đầu chó chỉ cầu buông tay ra là nó có thể thoát, thế nhưng nó lại nhất định không chịu buông tay ra. Chính điều này cho ta thấy rằng, con khỉ đầu chó giống con người, cũng có thể nói người giống khỉ đầu chó. Cử chỉ của khỉ đầu chó là một bản năng không ý thức, không rời nó được, mà con người nếu như giống khỉ đầu chó chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. Chết không buông tay, đó chỉ có thể trách họ u mê không tỉnh ngộ.

Người xưa nói: “Lùi một bước trời cao biển rộng”. Người thất tình chỉ cần chấp nhận quên người đã bỏ mình thì đâu đến nổi làm cho bản thân hồn siêu phách lạc, lòng dạ băng giá. Người thất nghiệp chỉ cần từ bỏ cách lựa chọn nghề cứng nhắc của mình mà thay đổi thì đâu đến nỗi suốt ngày ủ rủ, trách trời trách người đây? Con bạc chỉ cần buông tha ý nghĩ may rủi thì đâu đến nỗi tiền đi không trở lại, khuynh gia bại sản? Con nghiện chỉ cần tránh xa chất gây nghiện thì đâu đến nỗi thân tàn ma dại? người hối lộ, người phá kỷ cương chỉ cần chấp nhận từ bỏ chữ “tiền” thì đâu đến nỗi phải vào tù, thậm chí mất mạng”

Câu chuyện trên đây để xác định được đức vượt qua bằng đức buông xả, nhờ có buông xả mà vượt qua nhân quả. Bản chất con người không buông xả, do không buông xả mà con người phải chịu vô cùng khổ đau.

Tất cả các pháp đều vô thường, nên chúng là khổ đau, vì thế ai biết buông xả là người thoát khổ, còn ai không biết buông xả thì khổ đau không bao giờ dứt. Người tu theo Phật giáo cũng chỉ có việc buông xả mà chứng đạo.

Con người ở đời rất là u mê, chết không mang theo vật gì, vậy mà sống thì ôm đồm không dám buông xả cứ khư khư giữ chặt, cho nên chịu khổ là phải. Vậy mà ở đây có người tu hành lại phóng dật thưa hỏi lung tung. Sao không biết buông xả xuống đi để thân tâm được giải thoát trong trạng thái tâm bất động, chỉ được im lặng một chút xíu là thưa hỏi Thầy lăng xăng, đó không phải là phóng dật sao?

Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng còn chi lại nữa.
Vạn sự vô thường buông xuống đi!

Bốn câu kệ này là lời nhắc nhở mọi người tu hành cần phải buông xả thế mà quý vị có buông xả đâu cứ thưa hỏi điều này thế kia để huân tập thêm sự hiểu biết, sự hiểu chỉ là cái tủ đựng kinh sách rộng tếch chẳng có ích lợi gì.

Sợ các con không biết buông xả cho nên Thầy dạy thêm một bài kệ nữa nói lên phương pháp tu tập nhưng nào ngờ các con có tu tập chỗ nào đâu, cứ phóng dật lung tung thưa hỏi những điều vớ vẫn, nên ngậm im miệng lại để nó mốc meo thì may ra mới chứng đạo. Nếu thấy tu không được, tâm phóng dật thì về trông nôm con cháu, nhà của còn có ích lợi hơn.

Tác ý đi, hãy tác ý đi!
Bất động, thanh thản, chẳng sầu bi.
Tác ý đi, còn lo chi nữa.
Giải thoát đây rồi, tác ý đi!

Buông xuống tất cả các pháp tức là vượt qua xin các con hãy ghi nhớ khắc trong lòng mà cố gắng tu tập buông xả đừng nên mượn cớ này cớ khác để hỏi Thầy là các con bị tâm mình lừa gạt phá hạnh độc cư để thỏa mãn tâm phóng dật.

Một lần nữa Thầy xin nhắc lại các con BUÔNG XUỐNG TẤT CẢ thì ngay liền tâm BẤT ĐỘNG, đó là giải thoát của Phật Giáo. BẤT ĐỘNG là VƯỢT QUA NHÂN QUẢ các con có hiểu chưa?

( Thầy Thích Thông Lạc trả lời thư của Kim Quang)

290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như...