Thứ Tư, 22 tháng 2, 2023

206-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT PHÁP TẬP 5: DIỆU THANH HỎI ĐẠO TÂM NGUYỆN

 

206-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT PHÁP TẬP 5: DIỆU THANH HỎI ĐẠO TÂM NGUYỆN

Kính bạch Thầy, con có vài điều chưa hiểu, xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ: 

Hỏi: 1/ Con hiểu diệt trừ bản ngã là tầm quan trọng của việc tu. Có phải vậy không thưa Thầy? 

Đáp: 2/ Đúng vậy, diệt trừ bản ngã là điều quan trọng trong Phật Giáo. Nếu không diệt bản ngã thì không bao giờ có giải thoát. Nói diệt ngã thì dễ mà hành diệt ngã thì khó, hành diệt ngã còn phải hành đúng pháp, đúng pháp như thế nào? Đúng pháp là phải đúng Bát Chánh Đạo, ngoài Bát Chánh Đạo ra thì không có pháp nào tu tập diệt ngã được. Các con nên lưu ý: Đức Phật đã xác định trên Bát Chánh Đạo có những pháp môn tu tập rõ ràng và cụ thể. Đừng nên nghe ngoại đạo lừa đảo đưa những tà pháp không đúng chánh pháp như lời Phật dạy trong kinh sách Nguyên Thủy. 

Hỏi: Như vậy có phải người đã diệt sạch được bản ngã, là vị đó đã vượt qua được một giai đoạn dài trên con đường tu chứng của vị đó. Có phải không thưa Thầy? 

Đáp: Diệt sạch được bản ngã là vị đó đã chứng đạo, đã tu xong, chứ không phải còn ở trên đường đang tu tập nữa. 

Hỏi: Kính xin Thầy giảng rộng cho chúng con được rõ tầm quan trọng của diệt trừ bản ngã.

Đáp: Do người ta chấp có cái ngã chân thật của mình, vì thế khi làm việc gì đều làm cho ngã, làm danh, làm lợi, làm hơn thua, ganh ghét, tỵ hiềm, hờn giận đều là vì cho cái ngã của mình, v.v... Nói chung về cuộc sống của con người, là một cuộc sống chấp ngã, sống cho ngã, làm cho ngã, v.v... Buồn vui, khổ đau hay phiền lụy đều do chấp ngã. Cho nên cái ngã có tầm quan trọng trong cuộc sống của con người rất lớn không thể nghĩ lường là như vậy. Cho nên sự diệt ngã có một tầm quan trọng rất lớn của một đời người tu sĩ theo Phật giáo. Nếu tu đúng chánh pháp của Phật thì mới diệt được ngã bằng tu sai pháp thì vô lượng kiếp chẳng diệt được ngã mà còn nuôi lớn ngã thêm lên bằng chứng các con nhận thấy tu sĩ Phật giáo hiện giờ đang sống cho ngã, đang nuôi ngã, đang phục vụ cho ngã, đang làm tôi tớ cho ngã, họ là những người nô lệ cho ngã, v.v...

Hỏi: Khi diệt thì phải diệt bằng cách nào?

Đáp: Như chúng ta đã biết ngã có tầm quan trọng rất lớn như vậy thì diệt ngã không phải là một việc dễ làm. Vì thế trước Phật và sau Phật không có pháp nào diệt ngã được, chỉ có Phật pháp mới diệt được ngã. Tại sao chúng ta nói trước Phật sau Phật không có pháp nào diệt được ngã? Khi đức Phật đi tu và tu tất cả các pháp của ngoại đạo trong thời đó Ngài đã không tìm được pháp nào diệt được ngã, Ngài phải tự tìm ra một lối tu tập và cuối cùng Ngài diệt được ngã. Đó là Bát Chánh Đạo Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất trên thế gian này diệt được ngã. Tại sao chúng ta nói sau đức Phật không có pháp tu tập nào diệt được ngã? Từ khi đức Phật nhập diệt đến nay ta chưa từng nghe thấy biết có một vị tu sĩ Phật giáo nào sống đúng phạm hạnh như Phật, vì thế mà ta biết rằng: Sau đức Phật không có pháp diệt ngã, vì pháp Phật đã bị pha màu sắc của ngoại đạo. Cho nên người ta nói vô ngã qua biết bao nhiêu là kinh sách như rừng, như núi, nhưng tìm một cuốn kinh sách để tu tập diệt ngã thật sự thì rất là khó khăn vô vàn. Muốn diệt được ngã như thầy đã nói ở trên chỉ có BÁT CHÁNH ĐẠO, nhưng đừng tu theo Bát Chánh Đạo lai căng của Đại thừa thì muôn đời ngàn kiếp cũng khó diệt được ngã.

Hỏi: Khi đã diệt được thì kết quả ra sao ? Con nhận thấy người tu thường vướng phải chỗ này, bằng chứng là sau những cuộc thử thách của cô Út thì các vị đó phải ra đi do diệt trừ bản ngã chưa sạch có phải không thưa Thầy?

Đáp: Một người tu sĩ khi diệt trừ được ngã thì tâm họ như đất dù ai có đổ các chất bẩn trên đất thì đất cũng không buồn phiền, và nếu ai có đổ vàng ngọc trên đất thì đất cũng chẳng mừng vui. Người diệt được ngã là người sống trong trạng thái tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm định trên thân. Tâm định trên thân là tâm bất động, tâm bất động là một trạng thái diệt đế, tức là một chân lý trong bốn chân lý của Đạo Phật. Những người bị cô Uùt thử thách bỏ ra đi là những người không diệt ngã vì họ là người tu sai pháp, không chịu xả tâm mà tu ức chế tâm vì tu cách đó là nuôi ngã.

Hỏi: 2/ Bạch Thầy khi tư duy quán xét thì phải sinh trí tuệ. Trí tuệ đó có phải thuộc về ý thức thanh tịnh không thưa Thầy? Nếu là ý thức thanh tịnh thì cần phải lưu giữ và phát triển, như vậy thì ý nào phải dừng lại? Có phải là những ý niệm lăng xăng phóng dật không thưa Thầy?

Đáp: Sự tư duy quán xét không phải là trí tuệ, vì trí tuệ phải phát sanh từ thiền định, nhưng bây giờ các con chưa có thiền định, sao lại gọi ý thức là trí tuệ được? Sự tư duy quán xét thì ý thức đó được gọi là tri kiến mà thôi, cho nên Phật dạy: Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Những tu sĩ phạm giới phá giới là những tu sĩ không có tri kiến Phật pháp, mà họ có tri kiến phàm phu tục tử, nên chi những tu sĩ này chạy theo dục vọng vật chất thế gian. Phật dạy tiếp: Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật. Cho nên ý thức thanh tịnh là nhờ giới luật, ngoài giới luật ra thì không có pháp nào làm thanh tịnh ý thức. Vậy ý thức thanh tịnh là ý thức của giới luật. Những tu sĩ chạy theo dục lạc vật chất thế gian chùa to Phật lớn tiền nhiều là những tu sĩ ý thức không thanh tịnh. Ý Thức thanh tịnh cũng chưa được gọi là trí tuệ, ý thức thanh tịnh chỉ được gọi tri kiến giải thoát. 

Hỏi: Kính xin Thầy giảng cho chúng con được rõ về ý thức có đến mấy loại ? Và ý nào cần phải phát triển ý nào cần phải dừng ? Kính xin Thầy từ bi chỉ dạy. 

Đáp: Có hai loại ý thức: 

1/ Ý thức thiện 

2/ Y thức ác 

Ý thức thiện cần phải phát triển. Ý thức ác cần phải ngăn diệt. Theo kinh Tứ Chánh cần Phật đã dạy: Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện. Kinh Pháp Cú Phật dạy: Các pháp ác chớ làm, nên làm các pháp thiện.

Hỏi: 3/ Kính bạch Thầy trong tập 10 sách Đường Về Xứ Phật, Thầy giảng về vô ngã, có đoạn Bác Hồ vô sản nhưng bác lại hữu sản có cả một thành phố Hổ Chí Minh. Bạch Thầy câu này có phải đồng nghĩa với câu mà toàn dân Việt Nam vẫn thường nhắc nhở: Bác Hồ vẫn mãi mãi là sự nghiệp vĩ đại của chúng ta. Có phải vậy không thưa Thầy? Con thành tâm quy kính ân đức nơi Thầy chỉ dạy.

Đáp: Hai câu đều có một nghĩa như nhau. Vô sản chính là hữu sản lớn, Đức Phật vô ngã nhỏ mới chính là hữu ngã lớn: Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn con người của muôn người, chứ không phải con người của mình nữa. 

Ngày rằm tháng 4 năm 2001. Thầy giảng: 

1/ Trong các hành có thiện và có ác khi người khởi một ý niệm ác hoặc một hành động ác là đã gieo một từ trường ác trong không gian. Trong không gian liên tục tiếp nhận những từ trường thiện và những từ trường ác. Do đó khi có một cơn mưa hay một cơn bão lụt cũng là do nhân quả thiện ác của những từ trường đó tạo thành. 

2/ Thân là vô thường nên phải có bịnh đau do có bịnh đau nên thân mới hoại diệt. Thân bịnh, đau và hoại diệt đều do nhân quả thiện ác của mình tạo tác. 

Ngày 4 tháng 5 năm 2001. Những lời dạy của cô Diệu Quang: 

1) Tâm sắc dục rất nguy hiểm, người tu nếu không xả được khi tâm sắc dục để nó khởi lên, người đó sẽ lồng lộn lên như con trâu điên khó kìm giữ có thể lời nói và hành động bất nhã còn hơn người chưa tu. Muốn xả tâm sắc dục, người tu phải thường quán thân bất tịnh, phải biết phòng hộ sáu căn, phải ly dục ly ác pháp và dùng câu tác ý diệt tâm sắc dục khi nó vừa móng khởi lên từ trong ý niệm. 

2) Người tu phải xả tâm phân biệt trọng nam khinh nữ. Tuy 2 hình thế nam nữ khác nhau nhưng tâm thể thì tương đồng. Tâm không hình tướng thì nào phân biệt được nam hay nữ? Do đó nếu người nữ quyết tâm tu giải thoát, nghiêm túc giữ gìn giới luật, biết phòng hộ 6 căn, phải ly dục ly ác pháp, không vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì sự chứng đắc cũng y như người nam vậy. 

3) Phải xả tâm trong tỉnh thức, khi bất chợt có người hỏi thì phải nhạy bén đối đáp, không thể ngơ ngơ mất tỉnh thức được. Phải luôn luôn quán tâm, khi tâm thanh thản biết tâm đang thanh thản; khi tâm khởi niệm biết tâm đang khởi niệm, thì dùng câu pháp hướng đánh bạt niệm khởi xuống rồi, buông niệm, buông luôn câu pháp hướng không được ôm giữ khư khư câu pháp hướng, có nghĩa là quán xét xả tâm trong trạng thái câu pháp hướng đó, chứ không phải niệm pháp hướng. Xong rồi để tâm trở về trạng thái bình thường, thanh thản. 

4) Người tu thiền phải thận trọng về âm thanh, khi ngồi thiền nghe tiếng chim hót hoặc những tiếng hay lạ khác mà đắm chìm trong âm thanh đó thì sẽ bị hư nhĩ căn. người tu thiền phải luôn luôn cảnh giác. 

5) Người nữ tu phải xả tâm phân biết nam nữ. Khi tiếp xúc với người nam phải biết vượt qua những thường tính nữ tính phải dũng mãnh tự xem mình là người nam như họ để không còn e thẹn không còn rụt rè, để tâm không bị dao động về những ý niệm, những cảm thọ về ái dục, và nhất là không nhận sự giúp đỡ, thọ ân của họ. Vì thọ ân thì tâm dễ sanh ra ái dục. Tiếp xúc với người nam với một tâm hồn vô tư trong sáng. Do đó không thể phạm giới, giữ trọn vẹn đức hạnh của người nữ tu. 

6) Dừng cái ý có nghĩa là ý khởi niệm gì thì không duyên theo đó mà hành động. Thí du: Thấy người làm sai một điều gì thì không được nói không được nhắc nhở họ, chỉ có thể nói cho Cô Út biết để sửa đổi họ mà thôi. Do đó tâm không duyên theo cảnh mà khởi động. 

7) Sống trong Tu Viện mọi người phải giữ hạnh độc cư nên không được nói chuyên với nhau. Nói chuyện sẽ có nhiều bất lợi trong việc tu. Thứ nhất nói chuyện thì tâm duyên theo cảnh không nhiếp tâm trong thiền định được, không tỉnh giác trong lúc đang làm việc, lúc đi đứng. Vì vậy tâm thường phóng dật. Thứ hai nói chuyên dễ sanh kết bạn, kết phe nhóm, nói xấu người này người kia làm động trong chúng, rối loạn trong Tu Viện. Vì vậy người tu hành phải giữ hạnh độc cho đúng, không được nói chuyện, chuyện đáng lắm mới nói, nói trong sinh hoạt cuộc sống mà thôi. 

8) Người tu phải luôn diệt trừ tâm ngã mạn. Bản ngã càng nhỏ bé thì con đường tu càng tiến bộ. Khi bản ngã khởi lên thấy mình hơn người thì phải tự quán xét mình và tác ý: "Mình hơn người này, nhưng còn nhiều khác hơn mình, mình phải bỏ cái tâm ngã mạn đó đi". Và khi thấy người hơn mình thì không sanh tâm ganh ghét đố kỵ. Khi quán xét và tác ý như vậy thì người đó dần dần sẽ xả được tâm ngã mạn. 

9) Người tu tập phải tự rèn cho mình có ý chí tự lập, việc gì mình cũng có thể làm được, không có tính ỷ lại vào người khác. 

10) Khi gặp ác pháp đến người tu phải tự xét hỏi: Ác pháp đến ta phải làm gì? Không lý ác pháp đến ta lại cột mình vào ác pháp, phải sống trong ác pháp hay sao? Phải biết xả, xả cho thật sạch, không còn một chút ác pháp nào dính mắc trong tâm ta được. 

11) Những người đạo cao chức trọng và những người kiến thức sâu rộng hoặc giàu có hơn người khác mà không xả tâm được thì bản ngã càng ngày càng to lớn theo đạo cao chức trọng, sự hiểu biết và sự giàu sang của họ, thì con đường tu của họ không đi đến đâu cả. Người tu mà xả được bản ngã thì không thấy mình hơn người, không thấy mình đạo cao chức trọng, đi đến đâu gặp người tiếp đón ân cần nồng hậu thì không mừng, nếu gặp người tiếp đón lơ là thì cũng không buồn. 

12) Hằng ngày ta phải tập dừng cái ý khi ý khởi làm cái này muốn cái kia ta phải chủ động dùng pháp hướng để điều khiển cái ý, không để lê thuộc theo ý. Khi ta điều khiển ý được thuần thục đến lúc bệnh đau hoặc trước giờ lâm chung, ta giữ được tâm thanh thản an vui. Nhờ đó tâm được an nhiên tự tại ra đi do sức tự lực điều khiển ý của mình, chứ không phải dùng tưởng lực. 

13) Người tu khi làm một việc gì thì phải tùy thuận, bằng lòng theo ý của mọi người khác, không được tùy theo ý mình mà làm, phải tỉnh thức và tự lực trong việc làm, như vậy tu mới tiến bộ được. 

14) Tâm dục do từ nơi ý khởi lên, vì vậy thấy còn ham thích, còn muốn hơn thua tranh chấp. Dừng được ý thì không còn ham thích điều gì, không còn muốn hơn thua tranh chấp với ai nữa. Dừng được ý thì tâm phảt khởi sáng, nhận thức đúng những sự việc của mình của người mà không bao giờ lầm lạc. 

15) Người tu cần phải có ý chí kiên nhẫn, chịu đựng khắc phục những khó khăn, để dũng mãnh vượt qua, quyết chí có tiến, chứ không lùi bước trước một khó khăn, một trở ngại nào. 

16) Hằng ngày chúng ta phải quan sát và chủ động điều khiển ý thức. Khi gặp chuyện buồn ta biết đó là ác pháp, ta tác ý cho chuyện buồn rơi rụng xuống, tâm ta trở lại thanh thản, bình thường hoặc gặp chuyện mừng vui thì tâm ta vẫn bình thản không mừng, vì mừng vui hoặc buồn khổ quá độ sẽ khiến ta mất tự chủ, ảnh hưởng không tốt đến việc tu. 

17) Người tu khi ăn một món ngon muốn ăn thêm nữa thì phải biết rằng đây là tâm tham vẫn còn nên tác ý chủ động điều khiển ý tham ấy dừng lại: "Bao nhiêu đó đủ rồi, không còn tham ăn nữa." Nếu thấy ăn ngon, vẫn ăn cho thỏa thích như người thế gian thì còn gì đạo hạnh của người tu. Xả tâm sân giận cần có tình thương đi đôi thì xả tâm nhanh chóng và dễ dàng. Nếu thiếu tình thương trong đó mà thêm cái ghét thì rất khó xả. Có tập xả thì cũng xả tâm trong sự ức chế mà thôi. Vì vậy người tu tập hằng ngày nên rèn luyện cho mình có cái tâm thương tất cả mọi người, nên nhìn thấy cái tốt của mọi người mà thương. Trước sau không còn một người nào mình ghét thì sự tu tập xả tâm mới tốt được. 

18) Khi mình làm được điều gì có lợi ích cho đời, cho người thì nên âm thầm im lặng không nói cho ai biết, có người hỏi cũng không nói. Nếu nói cho người biết là tâm danh còn, nó làm cho bản ngã càng thêm lớn, rất có hại cho người tu. Vì vậy người tu hành cần nên cảnh giác trong lời nói của mình suy xét cho kỹ rồi mới nói. Người tu luôn luôn quán xét tâm mình, nếu thấy có làm điều gì lỗi lầm thì tự răn mình sửa đổi không nên đổ lỗi cho người này người kia, là tu sai rồi. Phải nhìn thấy lỗi mình trước, chứ đừng nhìn thấy lỗi của người. 

19) Khi bị cô Út la rầy thì ta phải tư duy quán xét cho tận nguồn gốc, ta có làm điều gì lỗi hay không? Khi đã nhận ra lỗi lầm thì xả cho thật sạch, không còn một chút buồn giận nào dính mắc trong tâm ta nữa. Lúc đang buồn giận vì bị la rầy mà vào thất đọc sách hay nghe băng thì buồn giận sẽ lướt qua trong sự ức chế đè nén là đào lấp sự buồn giận chứ không phải là xả tâm. Muốn xả tâm cho rốt ráo ta phải đào bứng cho tận gốc rễ sự buồn giận bằng cách tư duy quán xét nhận cho ra lỗi lầm là thiếu sự tùy thuận, rồi dùng câu tác ý mà xả cho sạch và diệt bản ngã bằng sự sám hối, nói lời xin lỗi. 

20) Không dính mắc vào sự khen chê có nghĩa là khi có người khen mình, mình không khởi tâm vui mừng vì mừng vui thì bản ngã càng lớn là tâm danh còn. Và khi bị người chê, thì ta không buồn giận, nhưng phải quán xét ta có làm điều gì sai quấy hay không mà bị người chê. Nếu có sai quấy lỗi lầm thì tự răn, mình sửa đổi, còn nếu không có lỗi lầm thì an nhiên tự tại trước lời khen chê, phải tự tin nơi mình. 

21) Khi nghe có người nói xấu mình một điều gì thì đừng vội tin, vì tin liền là mình mất tự chủ. mà phải suy xét cho kỹ nếu đúng thì ta tự răn mình và sám hối, sửa đổi. Còn nếu lời nói sai thì ta xả, không quan tâm tới nữa. 

22) Trong sự giao tiếp sinh hoạt hằng ngày, sự quán xét tư duy là quan trọng. Nếu thiếu quán xét thì công việc dễ bị lệch lạc, dể bị hư hao thất bại. Vì vậy người tu hành cần phải thường xuyên quán xét, quán xét tâm niệm, quán xét sự việc để tâm lúc nào cũng ở trong trạng thái tỉnh thức qua lời dạy và những thử thách của cô Diệu Quang.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  290-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như...